Hôm nay,  

Hãy Chọn Cho Nhau

13/12/201900:00:00(Xem: 5423)
Hay Chon Cho Nhau_Orchid & Du Te Le a
Sinh năm 1942, nhà thơ Du Tử Lê mất ngày 7/10/2019.


Năm 1954, Ông di cư vào Nam cùng với gia đình. Năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lục, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa.

Ông làm thơ từ khi còn rất trẻ, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài "Bến tâm hồn", đăng trên tạp chí Mai.
Năm 1973 tại Sài Gòn, ông được trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc, bộ môn Thơ với tác phẩm Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972.

Năm 1975, ông sang tỵ nạn ở Hoa Kỳ, tiếp tục nghề viết lách, thơ của ông xuất hiện trên nhiều tạp chí trong và ngoài nước. Ông có thơ đăng trên nhật báo Los Angeles Times, 1983, và New York Times, 1994.

Du Tử Lê là tác giả của trên 70 tác phẩm đã được xuất bản.


Orchi Lâm Quỳnh

Phải chăng, mỗi chúng ta, ai cũng có quyền chọn cho mình một đời sống khác.
Đối mặt với sự ra đi hay ở lại, bình minh hay hoàng hôn, phải hay trái, trắng hay đen,...
Thật ra, Đời sống, dưới khuôn mặt nào, cũng chỉ là điểm dừng chân, để chúng ta chực chờ tai ương, bất trắc.

Chí Phèo của Chị:

Chị vẫn nhớ rất rõ. Buổi chiều hôm đó, khi cánh cửa mở,
em chạy xốc vào nhà, mặt hốc hác, hai mắt thất thần, lưỡi em khô khốc.
Người em toát ra mùi hôi tanh nồng nặc,
nhưng đôi mắt của em, đã nói cho chị biết rằng,
cả hai chúng ta, sẽ cùng chọn cho nhau, một đời sống chan hòa hạnh phúc.
Dù những ngày sau đó, chị cũng “cố gắng” rảo khắp khu phố nhà mình,
để xem có ai tìm em, một chú cún thất lạc.
Nhưng đó cũng chỉ là một trò phỉnh gạt thiên hạ, phỉnh gạt chính mình.
Chị biết, em không hề thất lạc. Nói đúng hơn, em đã trở về nhà.
Ngôi nhà bao năm có chị chờ đợi,
và chúng ta sẽ chọn cho nhau một đời sống mới.

Vậy mà ba hôm sau, em lại bỏ đi.
Dù biết đi tìm lại em là một điều phi lý. Vì em chưa bao giờ thất lạc. Nhưng chị vẫn lao về phía trước. Vẫn rảo khắp khu phố nhà mình. Với niềm tin mãnh liệt, sẽ gặp lại em.
Để đôi mắt của em, sẽ nói với chị rằng,
cả hai chúng ta, đã cùng chọn cho nhau, một đời sống chan hòa hạnh phúc.
Và trong nỗi tuyệt vọng, em đã trở về, nằm gọn trong tay chị, ăn vạ như Chí Phèo.
Và chị chợt nhận ra, đời sống mình đáng yêu quá đỗi.

Phải chăng, mỗi chúng ta, ai cũng có quyền chọn cho mình một đời sống khác.
Đối mặt với sự ra đi hay ở lại, bình minh hay hoàng hôn, phải hay trái, trắng hay đen,…
Thật ra, Đời sống, dưới khuôn mặt nào, cũng chỉ là điểm dừng chân, để chúng ta chực chờ tai ương bất trắc.


Chị nghĩ, em đã ở với gia đình, chắc cũng phải hơn 10 năm, trước khi em lại ra đi, nhưng kì này, khác với mười năm về trước, em không quay về nữa.
Những ngày cuối cùng, em xơ xác, thất lạc.
Dù trong nhà ai cũng thương em. Nhưng em vẫn không thoát khỏi định luật của thiên nhiên, có sinh, có tử.
Hễ có tương phùng, thì sẽ có biệt ly.
Em gần gũi với tất cả mọi người, nhất là Bố.
Có lẽ trong thâm tâm, em hiểu rằng, Bố là người cần em chở che, quan tâm, nhiều nhất.

Có lẽ vì vậy, đã ba năm trôi qua,
chị vẫn không dám đọc lại bài tùy bút Bố viết vĩnh biệt em, Chí Phèo,
ngày em lại chọn cho mình một đời sống khác.

Phải chăng, mỗi chúng ta, ai cũng có quyền chọn cho mình một đời sống khác.
Đối mặt với sự ra đi hay ở lại, bình minh hay hoàng hôn, phải hay trái, trắng hay đen,
Thật ra, Đời sống, dưới khuôn mặt nào, cũng chỉ là điểm dừng chân, để chúng ta chực chờ tai ương bất trắc.

Chị HB của em:
Biết bao lần, chị nói với em,
chị sợ cái chết của Bố. Ngay lúc ấy: chị sẽ ở nơi chốn nào, chị phải làm gì với thân thể thừa thãi. Phải chăng, nỗi đau sẽ lớn lao hơn mọi nỗi đau mà chị đã từng vượt qua. Biết đâu chị sẽ thành người mất trí.
Hay cả việc chị sẽ chọn cái chết, theo ông.
Những lần như vậy, em luôn chọn sự im lặng, vì sớm muốn gì, cả hai chị em ta, đều sẽ đi đến con đường của nỗi buồn bất biến.

Phải chăng, mỗi chúng ta, ai cũng có quyền chọn cho mình một đời sống khác.
Đối mặt với sự ra đi hay ở lại, bình minh hay hoàng hôn, phải hay trái, trắng hay đen,
Thật ra, Đời sống, dưới khuôn mặt nào, cũng chỉ là điểm dừng chân, để chúng ta chực chờ tai ương, bất trắc.

Cuối cùng, hai bố con mình phải chọn cho nhau một đời sống khác.
Khi chiếc ambulance dừng trước cửa,
như một thói quen, con thay đồ thật nhanh, chuẩn bị phóc lên xe, cùng Bố lao về phía trước của đời sống, dẫu biết rằng, đây chỉ là trạm dừng chân, để Bố con mình chực chờ tai ương, bất trắc.

Họ đẩy giường Bố lên xe, không quên nói với con: “Cô đi theo chúng tôi phải không? Tốt quá. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin thưa, tim ông đã ngừng đập.”
Ngay trong giây phút ấy, con cũng nhận ra, tim mình đã ngừng đập theo Bố.
Tuy nhiên, không như chị HB suy nghĩ, con không mất trí, con không hoang mang.
Con thấy thân xác mình nhẹ tênh.
Lơ lững. Lơ lững…
Con thấy em Chí phèo, sau thời gian tung hoành chốn giang hồ, bước ra giữa hư không,
Hồn nhiên lao vào vòng tay của Bố. Bố gãi tai em, vuốt nhẹ bộ lông không còn xơ xác.

Con nghe được, tiếng cười của Bố giòn tan trong sớm mai.
Phải chăng cái chết cũng chỉ là đời sống khác. Nó dịu dàng như mây, long lanh như ngọc.
Nhưng Bố ơi, con vẫn phải ở lại, Bố với em hãy bình an với đời sống mới.
Vì sớm muộn gì, chúng ta cũng sẽ có ngày hạnh ngộ.

49 ngày của Bố. 11/24/2019

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.