Hôm nay,  

Nhà Thơ Khế Iêm Thăm Tòa Soạn Việt Báo Tặng Số Báo Đặc Biệt Về Họa Sĩ Duy Thanh và Thi Sĩ Thanh Tâm Tuyền

14/02/202000:00:00(Xem: 3343)
Bia bao Tho Tan Hinh Thuc
Hình bìa báo giấy Thơ Tân Hình Thức số 58.(photo VB)

 

GARDEN GROVE (VB) – Sáng Thứ Ba, ngày 11 tháng 2 năm 2020, văn phòng tòa soạn tuần báo Việt Báo, 10517 Garden Grove Blvd., thành phố Garden Grove, CA 92840 có nhân duyên lành đón tiếp nhà thơ Khế Iêm, Chủ Bút Tập San Thơ Tân Hình Thức, đến thăm và tặng sách.

Đó là cuốn báo giấy số 58 đặc biệt để tưởng nhớ họa sĩ Duy Thanh và thi sĩ Thanh Tâm Tuyển do Câu Lạc Bộ Thơ Tân Hình Thức ấn hành, theo nhà thơ Khế Iêm cho biết trong buổi trò chuyện ngắn tại văn phòng mới của tòa soạn tuần báo Việt Báo.

Trong cuốn báo đặc biệt này có bài của nhà thơ Khế Iêm viết về họa sĩ Duy Thanh và thi sĩ Thanh Tâm Tuyền. Một bài khác của nhà văn Nguiễn Ngu Í viết về họa sĩ Duy Thanh được trích lại từ báo Bách Khoa số 148 năm thứ 7 ngày 1 tháng 3 năm 1963.

Một bài khác cũng trong số báo này còn đặc biệt hơn. Đó là bài “Kinh Nghiệm Sáng Tác Trong Tù” của chính thi sĩ Thanh Tâm Tuyền viết ngày 21 tháng 2 năm 1993 tại Mỹ. Về bài viết này của thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, nhà thơ Khế Iêm kể rằng ông đã được thi sĩ Thanh Tâm Tuyền gửi tặng cho bài viết này vào ngày 22 tháng 2 năm 1993, với lời ghi chú “Đọc cho đỡ buồn.” Theo nhà thơ Khế Iêm cho biết thì đây là bài viết chưa từng được phổ biến, nghĩa là số báo đặc biệt này là nơi đăng bài này lần đầu tiên.

Trong bài viết của ông, nhà thơ Khế Iêm đăng bài thơ “Thử Vẽ Phác Chân Dung Một Thi Sĩ” để nhớ về thi sĩ Thanh Tâm Tuyền mà ông đã làm năm 1986. Nhà thơ Khế Iêm kể rằng ông đã gửi tặng nhà thơ Thanh Tâm Tuyền bài thơ này trước khi ông đi vượt biên vào năm 1988 và qua Mỹ định cư năm 1990. Bài thơ như sau:

 

Thử Vẽ Phác Chân Dung Một Thi Sĩ

 

Thở dồn dập phôi pha xưa mắt rối

Gió rêu

Ngày siết nhớ nụ cười đáy hồ tắt

Nắng hú

Khỏa thân người

Nhà thân trôi

Lời xẫm xanh lời

Hoài hủy nói

Khói ngốc nghếch đùa điên môi mưa

Sần sủi thổi

Ngồi man mác rong

Thuốc lá cà phê và thi sĩ.

 

Sài gòn 1986

 

Nhà thơ Khế Iêm viết về họa sĩ Duy Thanh, “Tôi gặp ông vào khoảng mùa Thu năm 1972, khi mang bản thảo tập kịch Hội Huyết nhờ ông vẽ bìa (tập kịch sau năm 1975 tôi cũng mất, chỉ còn mấy cái hình bìa trên online). Ông đọc và vẽ bìa, rồi nói tôi ngồi để ông phác thảo vài nét chân dung. Sau đó có lần tình cờ tôi gặp ông củng đi với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (lúc đó tôi chưa quen) trên đại lộ Lê Lợi, ngang nhà sách Khai Trí, rồi nghe nói ông xuất ngoại, đi Okinawa. Và ông không trở về nữa, vì biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Sau năm 1990, tôi có lên nhà thăm ông một lần tại San Francisco, California, và ông có đưa cho tôi một số bức vẽ trắng đen.”

Khi được hỏi hiện nay anh đang làm gi, nhà thơ Khế Iêm vừa cười vừa nói “retired.” Phóng viên Việt Báo tò mò hỏi tiếp: có nghĩa là không làm thơ nữa? Nhà thơ lại cười và nói “giữ cháu.”

Nhà thơ Khế Iêm như sực nhớ điều gì đó vui vui và anh chia xẻ ngay rằng là mấy tuần trước Tết vừa rồi anh có về Việt Nam và thật rất tình cờ cũng là sự kiện rất bất ngờ đối với anh là cuốn sách “Vũ Điệu Không Vần” dày 600 trang của anh đã được in và ra mắt tại VN ngay đúng lúc anh có mặt trong nước. Nhà thơ Khế Iêm cho biết cuốn “Vũ Điệu Không Vần” là cuốn sách chứa đựng toàn bộ kiến thức về thơ Mỹ.

Độc giả muốn biết thêm về Câu Lạc Bộ Thơ Tân Hình Thức có thể vào thăm trang mạng www.thotanhinhthuc.org

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngoài kia nắng chiều vừa xuống. Trước khi nói lời từ giả với cha mình, vị chân tu đưa bằng hai tay cho cha chuỗi tràng hạt, và vị chân tu nghẹn ngào: thưa ba giử lấy chuỗi tràng hạt này, để khi nào ba có băn khoăn điều gì, một cơ duyên gì, xin ba cứ lần tràng hạt tinh thần ba có đủ tĩnh thức, và tâm hồn ba sẽ binh an. Anh đưa tay nhận chỗi tràng hạt, cả hai cho con nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức...
Năm năm sau, vào năm 1844, ông đăng bản dịch tiếng Anh một phẩm của Kinh Pháp Hoa. Đây là bản kinh Phật Giáo Đại Thừa đầu tiên xuất hiện trong Anh ngữ. Đặc biệt, bản dịch được xem là Phẩm Thứ Năm của Kinh Pháp Hoa. Phẩm này được dịch sang Hán văn là “Phẩm Dược Thảo Dụ” và trong tiếng Anh nó chỉ được dịch đơn giản là “Plants” [Cây Cỏ]. Phẩm Thứ Năm trong Kinh Pháp Hoa so sánh lời dạy của Đức Phật với cơn mưa rải xuống khắp mọi nơi và so sánh thính chúng của Đức Phật với các hạng thảo mộc lớn, trung bình và nhỏ. Ở đây Thoreau đã tìm thấy giáo lý tôn giáo đã được phô diễn qua việc mô tả về cây và cỏ. Thoreau đã dành 2 năm sau đó để sống độc cư trong rừng hoang cạnh Hồ Walden Pond tại thành phố Concord thuộc tiểu bang Massachusetts. Ở đó ông đã thực hành việc chiêm nghiệm thiên nhiên về điều mà ông đã đọc trong các sách về tôn giáo Ấn Độ -- đặc biệt Kinh Pháp Hoa nơi dạy con người ngồi trong rừng để chiêm nghiệm thực tại. Sự miêu tả của ông về thời gian ông sống nơi hoang vu, được phổ biến
Một nhà thơ khi sáng tác, thường là từ cảm xúc riêng. Có khi ngồi lặng lẽ nửa khuya, có khi lặng lẽ nhìn ra suối hay góc rừng, và có khi chợt thức dậy lúc rạng sáng và nhớ tới một vấn đề… Làm thơ là ngồi một mình với chữ nghĩa, đối diện trang giấy trắng và nhìn vào tâm hồn mình. Trên nguyên tắc, không ai làm thơ với “hai mình” hay nhiều người.
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi.
Cô đơn có lẽ là chất liệu sung mãn nhất cho sự sáng tác của những ngưởi cầm bút. Khi viết, người cầm bút sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình. Họ không muốn bất cứ ai, bất cứ điều gì, bất cứ ngoại cảnh nào chi phối hay có thể lôi kéo họ ra khỏi cái thế giới sáng tạo đầy hứng thú mà họ đang bơi lội trong đó. Càng say mê viết họ càng lặn sâu vào cõi cô đơn. Nỗi cô đơn càng mãnh liệt bao nhiêu thì sự sáng tạo của người cầm bút càng độc đáo bấy nhiêu. Trong cô đơn cùng cực thì sự sáng tạo mới đủ sức để khai sinh ra được đứa con tinh thần độc đáo mang thể chất nguyên vẹn của chính nhà văn mà không phải là phó sản của bất cứ từ đâu khác. Ernest Hemingway là loại người như thế. Đặc biệt khi ông viết cuốn tiểu thuyết “The Old Man and The Sea” [Ông Lão và Biển Cả], mà ở VN trước năm 1975 hai nhà văn nữ Phùng Khánh và Phùng Thăng đã dịch sang tiếng Việt với tựa để “Ngư Ông và Biển Cả.” Ernest Miller Hemingway sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899. Ông là ký giả, tiểu thuyết gia, người viết truyện
Nguyên ngồi lặng yên nhìn Yến. Nỗi thắc mắc về người đàn ông đứng nói chuyện với nàng vẫn còn là một ám ảnh dằng dai, ấm ức. Chàng thấy khó hỏi thẳng. Giá hắn ta cùng trạc tuổi chàng (hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ hơn đôi chút) nhìn cách nói nói chuyện, chàng còn có thể đo lường được mức độ thân mật giữa hai người. Lại giá hắn ta cứ già như thế, nhưng có một bề ngoài bảnh bao, lịch thiệp, cử chỉ chững chạc, đàng hoàng, dầu sao cũng vẫn còn là một điều dễ chịu cho chàng trong việc ước đoán mối liên hệ tình cảm giữa nàng và hắn (nếu hắn thuộc hạng người như thế, Nguyên có đủ lý do để tỏ lộ mối nghi ngờ một cách thẳng thắn mà không ngại làm Yến phật lòng). Đằng này hắn không giống bất cứ người đàn ông nào vào loại đó để có thể nghi được là người tình của Yến. Mái tóc đã lấm tấm ít sợi bạc, bôi dầu bóng nhẫy, hai bên ép sát vào da đầu, lượn một cách rất khéo về phía sau. Nước da xanh mét như một người nghiện thiếu thuốc lâu ngày
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.