Hôm nay,  

Những người nữ trong thơ Trần Yên Hòa

31/03/202015:38:00(Xem: 5388)
blank

 

NHỮNG NGƯỜI NỮ TRONG THƠ TRẦN YÊN HÒA
 

phan ni tấn

 

TRẦN YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ là tập thơ phản ánh tâm trạng của nhà thơ qua nhiều thể loại thơ khác nhau.

Từ một cậu học trò xuất thân trong một gia đình văn hóa xứ Quảng, Trần Yên Hòa bắt đầu làm thơ lúc mười hai tuổi. Từ những bước đầu chập chững đến nay, sau hơn năm mươi lăm năm làm thơ, nhà thơ nhìn lại chặng đường dài đã đi: "Cha tôi cũng mê thơ. Ông có làm thơ đường, thơ thất ngôn bát cú và họa thơ (…). Hay mẹ tôi, thường hát ru tôi bằng những câu ca dao thắm đượm mùi vị quê hương, tình yêu trai gái, nên tôi thấm sâu vào lòng những âm thanh ấy, để rồi sau này tôi yêu thơ và làm thơ…".

Phần tự sự trên đăng trong tập thơ TRẦN YÊN HÒA hơn năm mươi lăm năm THƠ là một phần đời của Trần Yên Hòa được tác giả kể lại bằng thi ca.

Sáng tạo nghệ thuật trong suốt tập thơ dầy 338 trang gồm 123 bài, Trần Yên Hòa đã hình dung được hình tượng, phác họa ra chữ nghĩa vọng âm như một tiếng thở dài. Bài thơ Khúc Tôi mở đầu trang thơ cho tới bài Tạ ở cuối tập, đã là một tiếng thở dài. Nỗi hoài vọng trong suốt Khúc Tôi là hình ảnh quá khứ những người thân từ hồi nào đã không ở cùng tác giả mà… ở đâu đó. Ngữ pháp u trầm nhưng rất sắc qua quan hệ tình cảm ruột rà của tác giả là một thí dụ:

 

… Mẹ yêu dấu cũng trở về với đất

đất thì im lặng tiếng, mịt tăm

nên lời mẹ đã ngút ngàn phơ phất

bỏ mình tôi cùng đá cuội, lăn tăn

 

Cha thương nhớ cách xa như cổ tích

mệt nhoài tôi đứng lặng, thư phòng

nhìn quanh quất đâu dấu hài, tịch mịch?

dấu hài em lặn mất giữa dòng

 

Còn lại chị, còn lại anh, đâu đó

không thấy ai, hú gọi tôi về

còn lại con… con còn đang cất vó…

hồng ân chưa cập bãi sông mê…

 

Nhưng thiết nghĩ hình ảnh cố nhân, là đối tượng Em của tác giả mới là tâm ý của bài thơ, có điều cuối cùng cũng xa lắc từ bao giờ:

  

Tôi còn lại em, mà em xa lắc

nên còn lại tôi, chỉ một tôi thôi

vì em, biển, còn tôi, là cát biển

lũ dã tràng kia, se, cũng, lở, bồi

Khúc Tôi, tr. 16

 

Đọc trang tự sự của Trần Yên Hòa cho thấy người thơ cô đơn cả ngoài đời lẫn trong thơ, vì chiến tranh, Trần Yên Hòa đã nhận rõ vị trí lính chiến của mình, xông pha ngoài mặt trận. Do dó, bài thơ viết trên ba-lô, trên mặt đá hay bên bờ sông, dốc núi, bìa rừng khẽ bật lên một lời xin nhỏ, dù chỉ một lần thôi:

 

Cho tôi được ngủ nhà đêm nay

cho tôi ngủ nhà đêm nay rồi mai đưa tôi đi đâu cũng được

bao nhiêu tháng bao nhiêu năm

tôi sẽ xa thành phố xa mái tóc em xa những đứa con yêu dấu

 

hãy cho tôi ngủ nhà đêm nay

không còn gì để van xin

sao đẩy tôi đi quá xa như vậy quá xa như vậy

hở chiến tranh loài người…

Lời Xin, tr. 20

 

Ngoài tình thương gia đình, có thể nói tình yêu đôi lứa trong thơ Trần Yên Hòa là một loại tình yêu không có màu xanh của bầu trời và biển cả. Đồng ý sức mạnh tinh thần của người thơ tạo ra thơ, nhưng hình ảnh những người tình trong thơ đều như gió bay đi xa lăng lắc, không để lại một vạt áo nào để người thơ rưng rưng đề thơ. Cho nên Em có bàng bạc bay đi, bay về, qua lại từng trang thơ trữ tình, rốt cuộc vẫn là Em… lê thê bào ảnh:

 

Em đến thăm anh trong chốc lát

trời bên ngoài đổ cơn mưa

mưa rất dầy, mù mịt

làm sao anh giữ được em

 

Chốc lát em trở thành thánh nữ

ở đâu cũng thấy em ngời sáng

cả vườn đời anh nở rộ

những đóa hoa hồng thắm

 

Rồi em ra về như gió bay

Bỗng dưng em xa lắc

Bỗng dưng em mịt mù như cơn mưa…

Em Xa Lắc, tr.31

 

Ngay cuộc tình thứ nhất vì cơn mưa đã làm cho ủ dột:

 

Có lẽ rất xưa – ngày em vào xuân

đôi má em hồng như trái bồ quân

đôi mắt em đen như nhung, ướt rượt

đốt cháy hồn anh cùng nắng sân trường

 

Rồi thế rồi thôi lạc mất nhau

lạc nhau đành đoạn suốt nửa đời

lạc nhau trong giấc chiêm bao cũ

biển loạn đời ta, thân nổi trôi…

Bài Trăm Năm, tr.39

 

Mưa miền Trung thường dầm dề. Mưa của nhà thơ Trần Yên Hòa cũng không khác. Từ cuộc tình thứ nhất mưa đành đoạn, mưa dầm dề, lê thê cho tới cuộc tình cuối vẫn mưa không ngớt hột:

 

Em về đâu từ bao lâu nay

Anh xa em như chim xa bầy

Mưa bay ướt áo em đang mặc

Đành đoạn rời đi như đám mây

         Mưa Em, tr. 326

 

Rón rén lần theo những cuộc tình thơ đẹp mà buồn được miêu tả qua từng trang Rượu Tình Say, Gởi Khổ Lụy Một Đời, Tạ Tình, Xa Người, Phượng Hề, Cô Gái Tam Kỳ Đất Khổ, Nhớ Em Khi Qua Cầu Cỏ May, Tôi Và Em, Tình Quay Lưng, Tình Em Xa Ngái, Bài Tình Cho Diên Khánh, Thà Người Phụ Ta v.v…, người ta cảm thương cho người thơ tội nghiệp ra sức bơi trên sóng tình yêu hầu mong tìm nguồn hạnh phúc khổ đau. Từ bơi ngửa với cuộc tình dịu ngọt vội sấp mặt trên dòng nước lạnh tê. Từ vòng ôm rưng rưng xiết chặt chợt hụt hẫng giữa khung trời hiu hắt. Từ những lời thỏ thẻ của em Hiền, em Thu, qua những tiếng cười rơi xuống của em Hoa, em Phụng, hơn nửa đời nhen nhúm mê vọng bỗng nhiên quay ngoắt đến nỗi người lầm lỡ phải ta thán "hất anh ra phân nửa cuộc đời, mùi tình xưa trở nên đắng nghét".

 

Trần Yên Hòa với hơn năm mươi lăm năm ăn nằm cùng thơ đã trở thành một mối lợi cho sự hình thành tập thơ gối đầu. Thế nhưng trong khi mượn thơ để thổ lộ tâm tình, lịch sử tình yêu lại làm chứng cho cơn thất tình rực rỡ của người thơ. Nhưng không phải lần duy nhất người tình bỏ đi mà về sau những Em Uyên, Em Phượng, Em Tam Kỳ, Đà Lạt, Sài Gòn, Tân Định, Mỹ Tho… lần lượt trở thành Em xa lắc như tranh cổ tích, em thiên thu đâu tận cõi ngoài, như Trần Yên Hòa thở than. Rồi em trích tiên, em điệu, em phù thủy cũng là một cái "khổ ách" xô người thơ ra khỏi "mái hiên đời":

 

Em, tình ta, mái hiên đời nắng dịu

sao bỏ đi xa ngút tận trời nào

Khản Cổ Gọi Tình Về (1), tr. 68

 

Em ơi, đã quá xa tay với

mù mịt người từ độ chiến chinh

mù mịt nhau nên đành lạc mất

Khản Cổ Gọi Tình Về (2), tr. 70

 

Từ em, bỏ cội bỏ nguồn

bỏ con sông nước đứng buồn nhìn theo

nhánh sông chảy miết qua đèo

anh heo hút đợi, chèo queo một mình

Khản Cổ Gọi Tình Về (3), tr. 75

 

 

Bị tước mất tình yêu, không thể níu lại chút mảnh vụn của thế thái nhân tình, người thơ cay đắng mà thiệt thà biến những Em xinh tươi, lộng lẫy thành giấy bút trắng tinh khôi, một trang vở mới (Thuở Em Là Nữ Sinh), Thiên nga bé nhỏ (Bài Tình Năm 2000), Mùa vàng rưng hoa cúc (Lãng Mạn Thu), Con chim nhỏ (Thảng Thốt Tôi)… Thậm chí, biến Sài Gòn thành em; cả con mắt cũng hóa trăng rằm "Mắt em một thuở trời trăng rằm" (Chung Một Nhánh Sông). Lãng mạn thật nhưng cũng thật cảm động với lời Tự Tình Cùng Dất Nước: "Vì Em cùng nghĩa với Mẹ. Cùng nghĩa với Quê Hương, Đất Nước" (tr.63).

 

Mà cũng lạ. Giữa nỗi buồn chênh vênh tưởng người thơ không toét nổi miệng cười, người đọc bất ngờ nhận ra câu ví von khá ngộ nghĩnh về mưa. Nhà thơ xứ Quảng ra Huế đụng phải cây mưa mà ngẫu hứng nảy sinh một ý tưởng đầy thi vị, cái thi vị không giống với bất cứ nhà thơ nào. Nhờ sự thành tâm của tác giả khiến đặc tính của câu thơ trong bài Huế Mưa được miêu tả theo kiểu "kích thích tính dục" bỗng trở nên hào hứng, vuốt ve tình tứ mà trong trẻo khác thường:

 

tôi nghĩ mùa mưa ở Huế nồng nàn như đêm hợp cẩn

bởi vì cái lạnh tê da ngoài Huế cho ta cảm giác ái ân.

Huế Mưa, tr. 23

 

Cái cảm giác ái ân của người thơ Quảng Nam đâu có khác chi cái ái ân tái tê cuồng dại:

 

Xin ca tụng em bài thơ mới viết

Giữa ta và say, như một tình cờ

Ta chếnh choáng em, mùi hương mới

Là chanh và sả buổi mai tươi

 

Em đã xông em. Trong ngày thứ bảy

Nên em thơm lừng, hương gió bay

Nên em thơm lừng, mùi da thịt

Anh cúi xuống vùng em, mùi thơm ngát

 

Vùng em thơm rất đượm. Tình Ơi.

Ru Tình Tôi, tr.188

 

Đặc tính trong thi pháp Trần Yên Hòa là ngữ vựng. Bài thơ dài hơi "Nhặt Khoan Cho Ngày Sinh Nhật" gồm 64 câu, đã có 5 lần kêu Huớ, nghe ra thật ồn ào:

 

Huớ em tôi, những ngày tình với Nẫu

Huớ em tôi, hãy bỏ xa tiền kiếp

Huớ em tôi, mùa xuân xanh lại đến

Huớ em tôi, ngày mai anh sinh ra

Huớ em tôi, không quay lui lại nữa

 

Tiếng Huớ diễn tả niềm vui trong ngày sinh nhật của tác giả, với tôi là lạ tai. Dù vậy, tiếng Huớ dễ thương của "dân nẫu" có phải là tiếng Bớ của người miền Nam: Bớ người ta! Bớ làng nước ơi! Bớ em!?

 

Bài "Bắt Đầu" có hai câu: Mới rợi này em, ngày mới rợi. Bỏ đàng sau, năm tháng, cô đơn. "Mới rợi" nghĩa là gì? Có phải là "Mới tới"?

Bài  "Bờ Em": Khi tình cuốn ta trôi chấp chới. Giữa cuồng lưu biết bíu vào dâu. "Bíu" có phải là Níu? Chao ôi! Ngôn ngữ của Nẫu quả là… nẫu nẹt, là lạ tai tôi.

 

 

Trần Yên Hòa sống trọn đời, tận tụy cho nghiệp thơ. Làm thơ vì đời, vì người (nghệ thuật vị nhân sinh). Hơn năm mươi lăm năm hướng về thế giới thơ, nghệ thuật Trần Yên Hòa nặng nợ với những đối tượng rục rỡ, thủy chung với những hình thể chói lòa để rồi chất chứa nỗi u sầu rã mục, dẫn lối vào không gian đơn chiếc độc thoại với âm u. Nghĩ lại mà tội người thơ đã lầm yêu phải thứ tình yêu chớp mắt, thứ tình yêu con bướm (đậu rồi bay đi), nó ray rứt não nề, nó ruồng rẫy biệt ly ngay từ cuộc tình đầu tay. Ta đọc lại đoạn cuối "Bài Trăm Năm" (tr.37):

 

Nửa đời ta như mưa phơ phất

Bỗng nhặt được lòng nhân ái từ tâm

của em, đánh rơi vào tình thứ nhất

để ta ôm hoài đi giữa nhân gian

 

Nhân gian ở đây rõ ràng không bình thường như người bình thường sống giữa đời thường mà nhân gian của người thơ là lai láng "sông mê" không bờ bến. Con sông mê muội chảy ngược xuôi giữa hồn đời sắc sắc, không không rồi thấm vào Bát Nhã. Người thơ thất tình lục dục lúc bấy giờ hốt nhiên đốn ngộ, dứt bỏ hết khổ ách (năng trừ nhất thiết khổ), biến thành "sa di" gánh cái chân tình tự ngã lững thững đi vào trang Tự kinh:

 

Thầm thì, thầm thì, rậm rịt

Tiếng cầu kinh trong đêm thâu

Ba la mật đa yết đế

Hãy quên cuộc sống nát nhầu

 

Đã qua bên bờ bỉ ngạn

Lời kinh chảy suốt qua tâm

Gió ngoài hiên tuôn thốc tháo

Dội qua tiếng kệ âm thầm

 

Ba la mật đa thời

Quên giọt máu bầm năm tháng

Quên hết những trò gian lận

Trở về gốc cội nghỉ ngơi

 

Thầm thì, thầm thì, tiếng mõ

Ngũ uẩn phút giây cuồng nộ

Hãy quên, hãy quên, hãy quên

Nằm kề trang kinh bát nhã.

 

Mang âm hưởng Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh của Phật Giáo Đại Thừa trải qua từ bảy thế kỷ đến nay, bài "Tự Kinh" (tr. 229) của Trần Yên Hòa với thi phong an nhiên tự tại thấm thía một đạo lý thâm hậu.

 

phan ni tấn

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc áo đầu tiên quý giá nhất trong gia đình tôi là một chiếc “áo Vua ban.” Hồi ấy, ba tôi làm nghề cạo giấy và mẹ tôi buôn bán theo lối tài tử. Bà làm nghề mách mối mua bán đồ cổ. Ngoài ra, bà còn vác máy ảnh đi chụp cho các bà Hoàng, bà Chúa, bà Phi, bà Tần trong cung cấm. Nghề mách mối đồ cổ là một nghề rất nhàn. Bà chỉ việc diện bảnh, rẽ đường ngôi cho thẳng, bôi dầu dừa bóng loáng và thơm nức lên; chiếc quần cũng được là thẳng và xếp thành nếp, gọi là “xếp con”, năm con, bảy con gì đấy cho ra vẻ quý phái. Ăn mặc tề chỉnh như thế, bà chỉ việc đến nhà các mệnh phụ, công nương, ngồi lê đôi mách một vài buổi. Thế là “mệ” nào muốn bán cái gì, cụ nào muốn mua cái gì, mẹ tôi biết rõ cả. Bà chỉ việc vắt vẻo ngồi lên chiếc xe tay nhà, chạy đi chạy lại một vài lần, là kẻ mua người bán đều vui vẻ. Nghề chụp ảnh mấy chục năm về trước còn là một nghề rất mới mẻ, nhất là đối với các mệ, các bà Phi, Tần không thể ra ngoài phố tự do như người thường. Mẹ tôi: được các bà hoan nghênh vô cùng.
Giống như biến cố sụp đổ Bức Tường Bá Linh hay sự sụp đổ của công ty tài chánh toàn cầu Lehman Brothers, đại dịch vi khuẩn corona là sự kiện làm tan nát thế giới mà các hậu quả lâu dài của nó chúng ta chỉ có thể bắt đầu hình dung hôm nay, theo bài bình luận của nhiều nhân vật được đăng trên trang mạng www.foreignpolicy.com vào ngày 20 tháng 3 năm 2020 cho thấy. Điều rất chắc chắn rằng là cơn đại dịch này ngoài việc làm đổ vỡ cuộc sống, làm gián đoạn các thị trường và phô lộ ra năng lực của các chính phủ, nó còn dẫn tới nhiều thay đổi vĩnh viễn trong quyền lực chính trị và kinh tế theo những cách sẽ hiển nhiên về sau này. Sau đây là một số nhận định và tiên đoán từ những nhà chiến lược hàng đầu trên thế giới đối với trật tự toàn cầu sau đại dịch corona. Một thế giới ít cởi mở, ít thịnh vượng và ít tự do hơn. Theo Stephen M. Walt, giáo sư về quan hệ quốc tế tại Đại Học Harvard, cho rằng đại dịch corona sẽ củng cố chủ nghiã quốc gia và chủ nghĩa dân tộc.
Cách đây hai hôm (Chủ Nhật 28/9/2020), trang mạng Diễn Đàn Thế Kỷ có đăng hai bài viết đặc biệt liên quan đến Đại Dịch, bài Nguyễn Du – Homère và Bệnh Dịch của Phạm Trọng Chánh, và Đại Dịch COVID – 19 của Trịnh Y Thư. Trong bài của Phạm Trọng Chánh, phần sau có nhắc đến trận dịch tể xẩy ra từ thời cổ đại qua sử thi của thi hào Homère trong trường ca Iliad. Cả 1100 chiến thuyền và 100,000 quân sĩ vây quanh thành Troie bị thiệt mạng vì trận dịch kinh hồn. Phần trước chỉ ngắn ngủi mấy câu lại gây xúc động nơi tôi hơn khi nói đến trận dịch gây nên cái chết của thi hào Nguyễn Du của chúng ta.
Nhà văn Ngô Thế Vinh sinh năm 1941 tại Thanh Hoá, nguyên quán Hà Nội. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa Sài Gòn năm 1968, từng là tổng thư ký rồi chủ bút báo sinh viên “Tình Thương” của trường Y khoa Sài Gòn từ 1964 tới 1967. Khi gia nhập quân đội VNCH, ban đầu Ngô Thế Vinh làm bác sĩ quân y của Liên đoàn 81 Biệt cách Dù. Sau đó ông đi tu nghiệp ngành Y khoa Phục hồi tại Hoa Kỳ, về nước ông làm việc tại Trường Quân Y Sài Gòn.
Nằm nhà rảnh rỗi suốt những ngày đại dịch Coronavirus Disease-2019 (COVID-19) hoành hành khắp nơi trên thế giới, tôi lại kệ sách lấy xuống cuốn tiểu thuyết La Peste của Albert Camus đọc lại, và sau khi đọc tôi bỗng giật mình vì những gì đang xảy ra quanh tôi ngày nay đã được Camus miêu tả thật chính xác cách đây trên 70 năm.
Nguyễn Du mất năm 1820, lúc 54 tuổi, giữa cơn dịch khủng kiếp từ Á sang Âu. Dịch tả phát xuất từ Ấ́n Độ sang nước ta cuối triều vua Gia Long, đầu triều vua Minh Mạng, có khoảng trên hai trăm ngàn người chết từ Bắc chí Nam, cơn dịch theo một người lính đi tàu từ Ấn Độ về cảng về đến Toulon nước Pháp gây truyền nhiễm làm tiêu hao phân nửa dân số Âu Châu thời bấy giờ.
Người ta nói, đại dịch đã đến rồi. Các công sở sẽ đóng cửa. Các con đường sẽ đóng bớt lại. Nhà hàng, rạp hát, những nơi vui chơi giải trí... tất cả đều phải đóng. Mỗi người hãy tự cách ly, đừng lang thang bên ngoài nữa. Một sẽ hại tất cả, và tất cả chung quanh cũng sẽ hại cho một. Mỗi cá nhân đều có liên hệ hỗ tương với gia đình và xã hội; tuy ly cách nhưng thực ra không ai tách rời khỏi thế giới. Mỗi người hãy tự ý thức vai trò và trách nhiệm của mình trong cuộc đời.
Tác giả không còn sống để bác sĩ Phân Tâm Học đặt những câu hỏi dẫn dắt liên tưởng tự do. Vì thế những gì viết về giấc mơ này hoàn toàn chỉ có tính giả thuyết dựa trên một số tài liệu liên quan đến những tình tiết trong mơ. Giấc mơ mà tác giả kể lại chính là nội dung mơ biểu hiện, xuất hiện dưới hình thức một câu chuyện. Nội dung mơ tiềm ẩn là bao nhiêu biến cố trong đời tác giả trải qua cho đến khi viết truyện này vào tháng 9 năm 1959.
Xin giới thiệu, tôi tên là Thừa. Tất nhiên, tôi không tự chọn tên cho mình. Đây là tên do ba tôi đặt. Ở đời, cái gì không cần thiết, người ta gọi là thừa. Khi đến Mỹ, buồn cảnh xất bất xang bang, chữ nghĩa cũng chán cảnh mang râu đội mũ, tôi được gọi là Thua. Từ ấy, tôi đâm ra không thích tên mình. Khi có trí khôn hiểu ra được mọi việc, chưa kịp thắc mắc tên mình với ba tôi thì ông đã chết. Ông chết vì lỡ sinh ra làm đàn ông trong thời chiến.
Họa sĩ Đinh Trường Chinh thuộc thế hệ họa sĩ “trẻ,” trưởng thành và định hình trong nghệ thuật ở hải ngoại những năm gần đây. Anh vẽ dễ dàng, sáng tác mạnh, luôn tìm tòi ý thức mới trong hội họa, nhạy bén trước các vấn đề xã hội và nhân sinh. Ý thức hội họa là điểm mạnh trong tranh của anh, người xem luôn luôn cảm nhận một ý tưởng rốt ráo nào đó, dù hiện thực hay siêu hình mang tính triết học. Ngoài vẽ, anh còn làm thơ, và cũng như tranh, thơ anh thấm đẫm tính trữ tình, đầy ắp những băn khoăn với cuộc sống bên trong một tâm hồn thơ mẫn cảm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.