Hôm nay,  

Mạ Ơi Mạ! Tháng 5 Mà Tuyết Còn Rơi Ngoài Tê Tề

10/05/202014:34:00(Xem: 3666)


Thừa Thiên-Huế là quê của Mạ tôi. Tính tới ni đã quá nửa đời người Mạ tôi xa Huế. Ngày Mạ theo chồng xuống bến đò Thừa Phủ, bỏ lại sau lưng tiếng thở dài của Huế, riêng làng Sịa, bầu trời có mưa rơi.

Cũng như Mạ, thuở nhỏ tôi đã sớm rời xa quê núi của tôi. Mạ xa quê còn có ngày trở về thăm Huế; còn tôi xa quê tới nửa vòng trái đất, so với người khác, tôi không biết làm sao trở về thăm lại miếng rừng, miếng núi quê xưa. Nhìn lại mới thấy mình giựt mình. Ai dè tôi xa quê đã quá nửa đời người rồi thê.

* * *


Bây chừ là trung tuần tháng Năm. Hằng năm vào ngày tháng ni thiên hạ lục đục khiêng cây cảnh trong nhà ra sau vườn đón nắng xuân. Riêng năm ni ông trời có hơi… khó ở nên thời tiết đâm ra thất thường. Hôm qua thành phố Montreal, thuộc tỉnh bang Quebec cách thủ phủ Toronto hơn 5 giờ đường xe, có tuyết rơi. Báo hại hai ông bạn già của tôi vừa run vừa… càm ràm trời đất.  Ông thơ Luân Hoán: 

tháng năm trời bỗng tuyết
bồi thêm giai đoạn buồn
từng phút đời lụn bại
vết thương chồng vết thương

mấy ngày không khóc được
trời khóc giúp cho rồi
sao càng buồn hơn nữa
tôi đang là tuyết rơi

Còn ông thơ Hoàng Xuân Sơn than: Gần giữa tháng 5 còn rơi tuyết ở phố Mộng bà con cô bác ơi. Hôm qua viết mấy câu chào xuân muộn. Trớt quớt rồi:

Bộ lệ buổi sáng
Căng hai đầu tiếng chim
Lâu rồi loài trùn đất
Thức giấc dưới tàn lá mục
Lâu rồi
Chồi non làm lễ mở cửa mả
Mồ tuyết di dân 

Ta đều biết kích thước của tinh thể tuyết là 0.1mm. Nhỏ xí rứa nhưng tuyết Canada có tai mắt, nhất là… có lòng vị tha. Nghe hai ông già miền Trung than thở rùm trời, nghĩ răng tuyết bèn âm thầm rủ nhau bay về Toronto thả tuyết rơi chơi. Đã rứa sáng ni ông trời còn làm gió cho tuyết rơi nghiêng nghiêng coi cho đẹp mắt. 

Có điều ông trời ni quên một điều hệ trọng. Càng lạnh lũ siêu vi khuẩn Vũ Hán càng sống dai, hắn càng hí hửng bay đi giết con dân vô tội. Biết rứa nên từ tháng Giêng tới chừ vợ chồng già tôi trốn miết trong già trong cửa (trong nhà trong cửa), có dám vác mặt ra đường chi mô. Cần việc chi thì bắt phone lên hỏi thăm sức khỏe của nhau, nhất là vấn an các bậc sinh thành.

Nói tới bọ mạ tôi (cha mẹ), râu tóc tôi đã bạc, da dẻ tôi đã nhăn, đi đứng lụm cụm, già chát ri mà vẫn hạnh phúc còn có Mẹ già. Mụ o của tôi cũng đà 70 cái xuân, vẫn còn Cha già 99 tuổi đời chớ ít răng nờ. Hồi thế giới chưa bị đại dịch Vũ Hán hoành hành, hầu như tuần nào vợ chồng tôi cũng chạy đi thăm hai người già. Người ở đàng Đông là nhạc phụ tôi; người ở đàng Tây là Mạ ruột tôi. Chừ ai ở nhà nấy, hằng ngày hỏi thăm nhau qua phone cho yên dạ. Biết răng chừ.

Mạ tôi năm ni 94 tuổi đời, bà vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Thấy tôi có lúc lọm khọm, Mạ dạy: "Thằng ni cử động chưn tay như ri nì." Vừa nói Mạ vừa vung tay vung chân rất bài bản, tôi cười cười tập theo, chộ (thấy) không ưng ý, Mạ bực: "Khun phải rứa. Tra trắn rứa mà ốt dột, cái thằng ni." (Không phải vậy. Thằng này già cái đầu không biết thẹn." Chừ già đầu tay chân tôi vẫn vụng về, thua xa thời lính tráng chỉ giỏi né hòn tên mũi đạn.



Tôi còn nhớ hoài ngày ra phi trường đón Mạ và hai đứa em tôi qua Canada định cư mà ôi chao vui! Thấy Mạ lững thững từ trong đi ra tay xách túi xách nhẹ hều, tay cầm cây đàn violon của Bọ (Cha) tôi, một cảm giác như thể nằm mơ làm tôi mờ mắt. Phi trường là nơi ồn ào, náo nhiệt người ra kẻ vào, rứa mà lúc nớ tôi cảm thấy bốn bề tĩnh mịch như tờ, tịnh không một bóng người, ngoài Mạ và hai đứa em. Cảm giác ngộ hỉ.

Hơn hai mươi năm mới hội ngộ người thân khiến tôi có cảm tưởng mọi thứ trở nên khác lạ, mơ hồ như tranh trừu tượng ngoằn ngoèo màu sắc, đường nét hoa văn gợi lên thú vui thị giác. Cái cảm giác kỳ lạ nớ, cho tới chừ cũng rứa. Mỗi lần hai Mạ con nói chuyện với nhau tôi lại nhìn thấy quê nhà trong mắt Mạ tôi, ánh mắt đã trầm đục vẫn chứa đựng cây rừng, bóng núi, nơi tôi sinh ra, lớn lên, rồi đi biệt cho tới tận bây chừ. Nhất là giọng Huế của Mạ gợi tôi nhớ tới quê ngoại tôi đã xa trên 70 năm trời. Hò Huế, ca Huế, ngâm thơ Huế từ giọng Huế của Mạ tôi lại trở về mơ hồ vọng âm trong tâm thức tôi. 

* * *


Qua Canada định cư mươi mười năm sau Mạ tôi mới trở về thăm nhà đôi lần. Lần mô cũng cùng con cháu ra Huế, thăm mồ mả cha ông ngoài nớ. Khi trở qua lại Canada, Mạ lại mang theo cả một khung trời trầm mặc, cổ kính Huế xưa. Cái giỏ Mạ khiêng bổ nghiêng bổ ngửa trên vai, lúc tôi phụ Mạ bỏ xuống thì ôi chao ơi, Huế ơi là Huế: trà cung đình Huế nì, quýt giấy Hương Cần nì, bưởi Thanh Trà nì, chùm dâu Truồi dài thòn lòn nì…


Huế ngày xưa của Mạ tôi cũng như núi rừng quê tôi xưa, chừ đã xa xăm mờ mịt, rứa mà một bổn hai quê vẫn lấn cấn trong cuộc đời làm người của tôi. Với núi rừng quê tôi:


Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy
Một rừng. một núi. một quê hương
Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão
Than già như cây cội tà dương

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít
Cây tre còn trẻ đã phong trần
Lá bay theo gió mười phương thổi
Tản mạn như người buổi chiến tranh


Với Huế của tôi:


Tôi xa Huế lâu rồi

Nhưng khó quên người ơi

Những lúc ngó mây trời 

Huế mọc trên lưng tôi

Những lúc dưới trăng ngồi

Huế tựa bờ vai tôi

Nhớ thuở ai đi mô

Cũng hoài mong về nớ

Những lúc nắng trên đồng

Huế duỗi ra mênh mông

Những lúc thấm mưa dầm

Huế lụt ở trong tôi.


Có lúc nằm mơ tôi thấy tôi bưng trầu cau… đi cưới Huế, nghe mình nói giọng Huế, ư hử một điệu chầu văn:

Sông Hương núi Ngự là khuôn mặt ngó nghiêng của Huế

Cửa Thượng Tứ là ngỏ hẹp chở tình tôi qua cầu

Một đời tôi chắc chẳng bao giờ tìm ra nỗi tím

Áo tím than bay trong gió phất phơ buồn

Em bình minh hay chừ em lom khom

Mà Đồng Khánh cũng già theo tiếng thở dài Quốc Học


Nước sông Hương chia đời nhau hai nhánh tóc

Hút tiếng đò đưa chim lẻ bạn kêu sầu

Chợ Đông Ba ai dời ra bãi dại

Để Huế buồn biền biệt tím mãi đâu.


Xin chào Huế của Mạ. Chào Huế của tôi.


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Khoảng thời gian bắt đầu vào đại học, ngoài những lúc phải học những bài sinh hóa khô khan, tôi tìm đến văn chương tiếng Việt qua các tạp chí như Văn Học, Văn, và Hợp Lưu. Khác với Văn và Văn Học vốn mang không khí “cổ điển”, Hợp Lưu, với chủ biên sáng lập là nhà văn Khánh Trường, bung mở một cánh cửa đón nhiều cây bút mang phong cách táo bạo, thể nghiệm, trong cả hai lãnh vực thơ và văn, đến từ trong và ngoài Việt Nam. Gặp nhiều chống đối vào những năm đầu vì có sự góp mặt của những nhà văn trong nước, nhưng Khánh Trường vẫn bất chấp, tiếp tục xây dựng Hợp Lưu thành một diễn đàn văn chương mở rộng vì “các thể chế chính trị rồi sẽ qua đi, nhưng văn học nghệ thuật sẽ còn tồn tại dài lâu, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là phải tìm cách bảo tồn, xiển dương những giá trị kia, không phân biệt phe phái, chính kiến.” (trả lời phỏng vấn của Đỗ Lê Anh Đào trên damau.org, ngày 22 tháng 9, 2006).
Khu Nursing Home gồm bốn dãy nhà quây thành hình vuông. Mỗi dãy có tám phòng, cửa mở ra chái hiên rộng, lát gạch hoa có tam cấp dẫn vào mảnh vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới: mít, xoài, nhãn lồng, xen kẽ những loại cây và hoa đậm chất đông phương: tùng, liễu, mẫu đơn, phật quả, thiết mộc lan và hồ rộng, thiết kế mỹ thuật. Những con thác từ các mỏm đá cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, đàn cá koi nhởn nhơ quanh các bụi thủy trúc, rải rác nhiều khóm liễu vươn ra từ bờ, sà thấp chạm mặt nước. Mùa hè, sáng, chiều, luôn có các lão niên ngồi trên những băng ghế đá, dưới các gốc cây phủ kín bóng mát bởi những tàn lá rộng, hóng gió, tán gẫu hoặc bày trò vui.
Năm 1988, tại Nam Cali có cuộc bầu cử ban chấp hành lâm thời của Văn bút Việt nam Hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến làm chủ tịch. Sau đó có các ban ngành này kia truyền thông, báo chí gì đó và tôi được chỉ định làm việc với Khánh Trường. Đó là lần đầu tôi gặp anh, 1 người điệu đà, mặc đồ trắng và quần có giây lưng, tuy dáng dấp khoan thai nhưng có cái gì đó dục giã giấu bên trong và nét bất bình loáng thoáng ở hàng râu mép.
Gần đây tôi tới thăm Khánh Trường (KT) nhiều lần ở trong mấy căn nhà đầu đường rất dễ kiếm trong khu mobile home trên đường Bolsa, nhiều lần tới nỗi mỗi khi xe chạy ngang đây thì Ngọc Ánh nhắc: ‘Hay ta vào thăm KT.’ Không được tiếp xúc với KT khi tôi còn ở bên Texas, chỉ liên lạc nhiều khi đã chuyển về Nam CA thôi, lúc KT đã bị lọc thận hàng chục năm rồi. Lần nào tới cũng thấy KT lọc cọc đẩy xe lăn ra mở cửa, với nụ cười hiền trên môi và cái bắt tay rất thân thiết, chí tình. Trong những lần đó, tôi cố ý nắm tay KT thiệt lâu, lâu hơn thời gian cần thiết của những cái bắt tay bằng hữu.
Tôi chạy tới nhà thương như một quán tính, tìm chỗ đậu xe một cách dễ dàng, nơi đây tôi đã ra vào quen thuộc, nơi đây tôi sắp sống với một cuộc chia ly mới. Tôi quen lắm hành lang phòng ICU, quen lắm với hình ảnh Bác Mai Thảo, Bác Đỗ Ngọc Yến, với Bố, với Mẹ... Và nay hình ảnh một thân quen quá đỗi hiện ra trước mắt - chú Khánh Trường! đang nhắm nghiền mắt, đang thoi thóp thở... Chị Hoà Bình ôm vai tôi, siết thật chặt. Hai chị em chẳng nói với nhau một lời, nhưng tôi hiểu, cả hai chị em, đang lục tìm trong quá khứ, để sống lại những ngày thật đằm thắm bên chú.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.