Hôm nay,  

Mạ Ơi Mạ! Tháng 5 Mà Tuyết Còn Rơi Ngoài Tê Tề

10/05/202014:34:00(Xem: 3537)


Thừa Thiên-Huế là quê của Mạ tôi. Tính tới ni đã quá nửa đời người Mạ tôi xa Huế. Ngày Mạ theo chồng xuống bến đò Thừa Phủ, bỏ lại sau lưng tiếng thở dài của Huế, riêng làng Sịa, bầu trời có mưa rơi.

Cũng như Mạ, thuở nhỏ tôi đã sớm rời xa quê núi của tôi. Mạ xa quê còn có ngày trở về thăm Huế; còn tôi xa quê tới nửa vòng trái đất, so với người khác, tôi không biết làm sao trở về thăm lại miếng rừng, miếng núi quê xưa. Nhìn lại mới thấy mình giựt mình. Ai dè tôi xa quê đã quá nửa đời người rồi thê.

* * *


Bây chừ là trung tuần tháng Năm. Hằng năm vào ngày tháng ni thiên hạ lục đục khiêng cây cảnh trong nhà ra sau vườn đón nắng xuân. Riêng năm ni ông trời có hơi… khó ở nên thời tiết đâm ra thất thường. Hôm qua thành phố Montreal, thuộc tỉnh bang Quebec cách thủ phủ Toronto hơn 5 giờ đường xe, có tuyết rơi. Báo hại hai ông bạn già của tôi vừa run vừa… càm ràm trời đất.  Ông thơ Luân Hoán: 

tháng năm trời bỗng tuyết
bồi thêm giai đoạn buồn
từng phút đời lụn bại
vết thương chồng vết thương

mấy ngày không khóc được
trời khóc giúp cho rồi
sao càng buồn hơn nữa
tôi đang là tuyết rơi

Còn ông thơ Hoàng Xuân Sơn than: Gần giữa tháng 5 còn rơi tuyết ở phố Mộng bà con cô bác ơi. Hôm qua viết mấy câu chào xuân muộn. Trớt quớt rồi:

Bộ lệ buổi sáng
Căng hai đầu tiếng chim
Lâu rồi loài trùn đất
Thức giấc dưới tàn lá mục
Lâu rồi
Chồi non làm lễ mở cửa mả
Mồ tuyết di dân 

Ta đều biết kích thước của tinh thể tuyết là 0.1mm. Nhỏ xí rứa nhưng tuyết Canada có tai mắt, nhất là… có lòng vị tha. Nghe hai ông già miền Trung than thở rùm trời, nghĩ răng tuyết bèn âm thầm rủ nhau bay về Toronto thả tuyết rơi chơi. Đã rứa sáng ni ông trời còn làm gió cho tuyết rơi nghiêng nghiêng coi cho đẹp mắt. 

Có điều ông trời ni quên một điều hệ trọng. Càng lạnh lũ siêu vi khuẩn Vũ Hán càng sống dai, hắn càng hí hửng bay đi giết con dân vô tội. Biết rứa nên từ tháng Giêng tới chừ vợ chồng già tôi trốn miết trong già trong cửa (trong nhà trong cửa), có dám vác mặt ra đường chi mô. Cần việc chi thì bắt phone lên hỏi thăm sức khỏe của nhau, nhất là vấn an các bậc sinh thành.

Nói tới bọ mạ tôi (cha mẹ), râu tóc tôi đã bạc, da dẻ tôi đã nhăn, đi đứng lụm cụm, già chát ri mà vẫn hạnh phúc còn có Mẹ già. Mụ o của tôi cũng đà 70 cái xuân, vẫn còn Cha già 99 tuổi đời chớ ít răng nờ. Hồi thế giới chưa bị đại dịch Vũ Hán hoành hành, hầu như tuần nào vợ chồng tôi cũng chạy đi thăm hai người già. Người ở đàng Đông là nhạc phụ tôi; người ở đàng Tây là Mạ ruột tôi. Chừ ai ở nhà nấy, hằng ngày hỏi thăm nhau qua phone cho yên dạ. Biết răng chừ.

Mạ tôi năm ni 94 tuổi đời, bà vẫn minh mẫn và khỏe mạnh. Thấy tôi có lúc lọm khọm, Mạ dạy: "Thằng ni cử động chưn tay như ri nì." Vừa nói Mạ vừa vung tay vung chân rất bài bản, tôi cười cười tập theo, chộ (thấy) không ưng ý, Mạ bực: "Khun phải rứa. Tra trắn rứa mà ốt dột, cái thằng ni." (Không phải vậy. Thằng này già cái đầu không biết thẹn." Chừ già đầu tay chân tôi vẫn vụng về, thua xa thời lính tráng chỉ giỏi né hòn tên mũi đạn.



Tôi còn nhớ hoài ngày ra phi trường đón Mạ và hai đứa em tôi qua Canada định cư mà ôi chao vui! Thấy Mạ lững thững từ trong đi ra tay xách túi xách nhẹ hều, tay cầm cây đàn violon của Bọ (Cha) tôi, một cảm giác như thể nằm mơ làm tôi mờ mắt. Phi trường là nơi ồn ào, náo nhiệt người ra kẻ vào, rứa mà lúc nớ tôi cảm thấy bốn bề tĩnh mịch như tờ, tịnh không một bóng người, ngoài Mạ và hai đứa em. Cảm giác ngộ hỉ.

Hơn hai mươi năm mới hội ngộ người thân khiến tôi có cảm tưởng mọi thứ trở nên khác lạ, mơ hồ như tranh trừu tượng ngoằn ngoèo màu sắc, đường nét hoa văn gợi lên thú vui thị giác. Cái cảm giác kỳ lạ nớ, cho tới chừ cũng rứa. Mỗi lần hai Mạ con nói chuyện với nhau tôi lại nhìn thấy quê nhà trong mắt Mạ tôi, ánh mắt đã trầm đục vẫn chứa đựng cây rừng, bóng núi, nơi tôi sinh ra, lớn lên, rồi đi biệt cho tới tận bây chừ. Nhất là giọng Huế của Mạ gợi tôi nhớ tới quê ngoại tôi đã xa trên 70 năm trời. Hò Huế, ca Huế, ngâm thơ Huế từ giọng Huế của Mạ tôi lại trở về mơ hồ vọng âm trong tâm thức tôi. 

* * *


Qua Canada định cư mươi mười năm sau Mạ tôi mới trở về thăm nhà đôi lần. Lần mô cũng cùng con cháu ra Huế, thăm mồ mả cha ông ngoài nớ. Khi trở qua lại Canada, Mạ lại mang theo cả một khung trời trầm mặc, cổ kính Huế xưa. Cái giỏ Mạ khiêng bổ nghiêng bổ ngửa trên vai, lúc tôi phụ Mạ bỏ xuống thì ôi chao ơi, Huế ơi là Huế: trà cung đình Huế nì, quýt giấy Hương Cần nì, bưởi Thanh Trà nì, chùm dâu Truồi dài thòn lòn nì…


Huế ngày xưa của Mạ tôi cũng như núi rừng quê tôi xưa, chừ đã xa xăm mờ mịt, rứa mà một bổn hai quê vẫn lấn cấn trong cuộc đời làm người của tôi. Với núi rừng quê tôi:


Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy
Một rừng. một núi. một quê hương
Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão
Than già như cây cội tà dương

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít
Cây tre còn trẻ đã phong trần
Lá bay theo gió mười phương thổi
Tản mạn như người buổi chiến tranh


Với Huế của tôi:


Tôi xa Huế lâu rồi

Nhưng khó quên người ơi

Những lúc ngó mây trời 

Huế mọc trên lưng tôi

Những lúc dưới trăng ngồi

Huế tựa bờ vai tôi

Nhớ thuở ai đi mô

Cũng hoài mong về nớ

Những lúc nắng trên đồng

Huế duỗi ra mênh mông

Những lúc thấm mưa dầm

Huế lụt ở trong tôi.


Có lúc nằm mơ tôi thấy tôi bưng trầu cau… đi cưới Huế, nghe mình nói giọng Huế, ư hử một điệu chầu văn:

Sông Hương núi Ngự là khuôn mặt ngó nghiêng của Huế

Cửa Thượng Tứ là ngỏ hẹp chở tình tôi qua cầu

Một đời tôi chắc chẳng bao giờ tìm ra nỗi tím

Áo tím than bay trong gió phất phơ buồn

Em bình minh hay chừ em lom khom

Mà Đồng Khánh cũng già theo tiếng thở dài Quốc Học


Nước sông Hương chia đời nhau hai nhánh tóc

Hút tiếng đò đưa chim lẻ bạn kêu sầu

Chợ Đông Ba ai dời ra bãi dại

Để Huế buồn biền biệt tím mãi đâu.


Xin chào Huế của Mạ. Chào Huế của tôi.


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”
Bạn tắt hết điện thoại, truyền hình, bạn gập lại các quyển sách đang đọc. Bạn ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, khóa kín cửa, hay bạn ngồi trên một tảng đá trong rừng, hay bạn ngồi giữa chợ, điều ấy không quan trọng. Bạn không cần phải thực hành bất kì một lễ nghi tôn giáo, yoga hay thiền nào cả.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.