Hôm nay,  

Chánh Pháp Số 104, Tháng 07 Năm 2020

01/07/202010:46:00(Xem: 2420)

CHANH PHAP BIA
Hình bìa của Đặng Thị Quế Phượng

NỘI DUNG SỐ NÀY:

¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2

¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 4

¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9

¨ NGÀY RĂM THÁNG TƯ CANH TÝ - 2020 (ĐNT Tín Nghĩa), trang 12

¨ BỜ CÕI THANH TÂN (thơ Mặc Phương Tử), trang 14

¨ KHÔNG NÊN VỘI TIN, CŨNG KHÔNG NÊN BÀI BÁC (Quảng Tánh), trang 15

¨ PHƯỚC SƠN HÒA THƯỢNG TÁN (Thích Chúc Hiền), trang 16

¨ HẠNH BỒ TÁT VÀ KINH KIM CƯƠNG (Nguyên Giác), trang 18

¨ TƯỞNG NHỚ NGƯỜI XƯA (thơ Diệu Viên), trang 22

¨ AN CƯ TỰ TỨ (HT. Thích Minh Cảnh), trang 25

¨ CHUYỂN HÓA CẢM THỌ (Ns. Thích Nữ Trí Hải), trang 28

¨ NGÀY MỚI CHÀO NHAU (thơ TK Vĩnh Hữu), trang 31

¨ CHẠY TRỐN – Câu Chuyện Dưới Cờ (Thị Nguyên Nguyễn Đình Khôi), trang 32

¨ CÔNG CUỘC CHẤN HƯNG Ở BẮC KỲ (Nguyễn Lang), trang 33

¨ HÀI CÚ (58) (thơ Pháp Hoan), trang 36

¨ THƯƠNG YÊU, HẬN THÙ, CÓ THỂ THAY ĐỔI (Minh Chi dịch), trang 37

¨ CHÙM THƠ “CHỮA LÀNH THẾ GIỚI” (thơ TN Huệ Trân), trang 38

¨ THIÊN HÀ ĐẠI ĐỊA NGAY NƠI TÂM NGƯỜI (Hạnh Chi), trang 40

¨ THẾ NÀO LÀ PHÁT BÔ ĐỀ TÂM (TN Hằng Như), trang 47

¨ TRONG CUỒNG PHONG BẦY QUỶ NHỎ (NT Khánh Minh), trang 48

¨ TIẾNG ĐÀN VI DIỆU (Truyện cổ Phật giáo), trang 50

¨ CHUYỆN THUỞ NÀO (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 51

¨ TRÔI VỀ ĐÂU ĐÔI MẮT THUYỀN THUỞ NỌ (Trần Hoàng Vy), trang 52

¨ MỘT LẦM LỖI NGỌT NGÀO (Chú Chín Cali), trang 54

¨ TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N.), trang 57

¨ PHỤC HỒI SAU TAI BIẾN NÃO (Bs. Nguyễn Ý Đức), trang 59

¨ TỪ KHI (thơ Lê Bích Sơn), trang 60

¨ STORY OF SUNDARI THE WANDERING FEMALE ASCETIC (Daw Tin), trang 61

¨ TRẢ THỊT (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 62

¨ ÁI DỤC TRONG KINH PHÁP CÚ (TM. Ngô Tằng Giao) trang 64

¨ THIỀN HÀNH (thơ Hư Vô), trang 67

¨ ẢO MỘNG TRẦN GIAN (Nhuận Hùng), trang 68

¨ DANH SÁCH ỦNG HỘ VẬT LIỆU Y TẾ TIẾP TRỢ CHỐNG DỊCH COVID-19 (Thư Ký Chánh Pháp), trang 70

¨ HÌNH ẢNH TẶNG VẬT LIỆU Y TẾ CHO CÁC BỆNH VIỆN (TV Từ Thiện Xã Hội), trang 72

¨ TỔNG KẾT PHẬT SỰ TIẾP TRỢ VẬT LIỆU Y TẾ CHO CÁC BỆNH VIỆN (Thích Quảng Hiếu), trang 72

¨ RA ĐÒN ẮT BIẾT KHẮC CHẾ (Tiểu Lục Thần Phong), trang 76

¨ NÚI XANH MÂY HỒNG – chương 7 (Vĩnh Hảo), trang 80

¨ KHÚC DIỄM HUYỀN, TẠ TUYỆT ĐỜI TA (thơ Phù Du), trang 83

¨ NẤU CHAY: BÚN THÁI CHAY (Mạnh Lân) trang 88

http://chanhphap.us/CHANH%20PHAP%20BO%20MOI/Muc%20luc%202020/CP%20so%20104%20(07.20).htm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngoài kia nắng chiều vừa xuống. Trước khi nói lời từ giả với cha mình, vị chân tu đưa bằng hai tay cho cha chuỗi tràng hạt, và vị chân tu nghẹn ngào: thưa ba giử lấy chuỗi tràng hạt này, để khi nào ba có băn khoăn điều gì, một cơ duyên gì, xin ba cứ lần tràng hạt tinh thần ba có đủ tĩnh thức, và tâm hồn ba sẽ binh an. Anh đưa tay nhận chỗi tràng hạt, cả hai cho con nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức...
Năm năm sau, vào năm 1844, ông đăng bản dịch tiếng Anh một phẩm của Kinh Pháp Hoa. Đây là bản kinh Phật Giáo Đại Thừa đầu tiên xuất hiện trong Anh ngữ. Đặc biệt, bản dịch được xem là Phẩm Thứ Năm của Kinh Pháp Hoa. Phẩm này được dịch sang Hán văn là “Phẩm Dược Thảo Dụ” và trong tiếng Anh nó chỉ được dịch đơn giản là “Plants” [Cây Cỏ]. Phẩm Thứ Năm trong Kinh Pháp Hoa so sánh lời dạy của Đức Phật với cơn mưa rải xuống khắp mọi nơi và so sánh thính chúng của Đức Phật với các hạng thảo mộc lớn, trung bình và nhỏ. Ở đây Thoreau đã tìm thấy giáo lý tôn giáo đã được phô diễn qua việc mô tả về cây và cỏ. Thoreau đã dành 2 năm sau đó để sống độc cư trong rừng hoang cạnh Hồ Walden Pond tại thành phố Concord thuộc tiểu bang Massachusetts. Ở đó ông đã thực hành việc chiêm nghiệm thiên nhiên về điều mà ông đã đọc trong các sách về tôn giáo Ấn Độ -- đặc biệt Kinh Pháp Hoa nơi dạy con người ngồi trong rừng để chiêm nghiệm thực tại. Sự miêu tả của ông về thời gian ông sống nơi hoang vu, được phổ biến
Một nhà thơ khi sáng tác, thường là từ cảm xúc riêng. Có khi ngồi lặng lẽ nửa khuya, có khi lặng lẽ nhìn ra suối hay góc rừng, và có khi chợt thức dậy lúc rạng sáng và nhớ tới một vấn đề… Làm thơ là ngồi một mình với chữ nghĩa, đối diện trang giấy trắng và nhìn vào tâm hồn mình. Trên nguyên tắc, không ai làm thơ với “hai mình” hay nhiều người.
Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi.
Cô đơn có lẽ là chất liệu sung mãn nhất cho sự sáng tác của những ngưởi cầm bút. Khi viết, người cầm bút sống trọn vẹn trong thế giới của riêng mình. Họ không muốn bất cứ ai, bất cứ điều gì, bất cứ ngoại cảnh nào chi phối hay có thể lôi kéo họ ra khỏi cái thế giới sáng tạo đầy hứng thú mà họ đang bơi lội trong đó. Càng say mê viết họ càng lặn sâu vào cõi cô đơn. Nỗi cô đơn càng mãnh liệt bao nhiêu thì sự sáng tạo của người cầm bút càng độc đáo bấy nhiêu. Trong cô đơn cùng cực thì sự sáng tạo mới đủ sức để khai sinh ra được đứa con tinh thần độc đáo mang thể chất nguyên vẹn của chính nhà văn mà không phải là phó sản của bất cứ từ đâu khác. Ernest Hemingway là loại người như thế. Đặc biệt khi ông viết cuốn tiểu thuyết “The Old Man and The Sea” [Ông Lão và Biển Cả], mà ở VN trước năm 1975 hai nhà văn nữ Phùng Khánh và Phùng Thăng đã dịch sang tiếng Việt với tựa để “Ngư Ông và Biển Cả.” Ernest Miller Hemingway sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899. Ông là ký giả, tiểu thuyết gia, người viết truyện
Nguyên ngồi lặng yên nhìn Yến. Nỗi thắc mắc về người đàn ông đứng nói chuyện với nàng vẫn còn là một ám ảnh dằng dai, ấm ức. Chàng thấy khó hỏi thẳng. Giá hắn ta cùng trạc tuổi chàng (hoặc lớn hơn, hoặc nhỏ hơn đôi chút) nhìn cách nói nói chuyện, chàng còn có thể đo lường được mức độ thân mật giữa hai người. Lại giá hắn ta cứ già như thế, nhưng có một bề ngoài bảnh bao, lịch thiệp, cử chỉ chững chạc, đàng hoàng, dầu sao cũng vẫn còn là một điều dễ chịu cho chàng trong việc ước đoán mối liên hệ tình cảm giữa nàng và hắn (nếu hắn thuộc hạng người như thế, Nguyên có đủ lý do để tỏ lộ mối nghi ngờ một cách thẳng thắn mà không ngại làm Yến phật lòng). Đằng này hắn không giống bất cứ người đàn ông nào vào loại đó để có thể nghi được là người tình của Yến. Mái tóc đã lấm tấm ít sợi bạc, bôi dầu bóng nhẫy, hai bên ép sát vào da đầu, lượn một cách rất khéo về phía sau. Nước da xanh mét như một người nghiện thiếu thuốc lâu ngày
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.