Hôm nay,  

Văn Học Press Giới Thiệu "Nụ Cười Buồn Mùa Hè" Của Nhà Văn Lê Lạc Giao

04/12/202009:26:00(Xem: 3783)


Văn Học
Press

22 Agostino, Irvine, CA 92614 USA • vmail: +1-949-981-3978

email: [email protected] • Facebook: Van Hoc Press

 

PR 12/01/2020

SÁCH MỚI

Trân trọng giới thiệu:

 

Le Lac Giao

 

Nụ cười buồn mùa hè

Tập truyện của nhà văn Lê Lạc Giao

 

Thiết kế bìa @ Lê Giang Trần

Văn Học Press xuất bản, 12/2020

Ấn phí: US$22.00

 

 

 

 

Tìm mua trên:

BARNES & NOBLE: https://bn.com/s/9781663590435 

 

  

Đọc “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” của Lê Lạc Giao

Sự khuếch tán của âm bản truyền thống trong định mệnh đời thường

Tô Đăng Khoa
  

Tác Phẩm “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” là tác phẩm thứ tư của nhà văn Lê Lạc Giao do Nhà Xuất Bản Văn Học phát hành vào cuối năm 2020.  Ba tác phẩm trước là “Một Thời Điêu Linh” (2013), “Nửa Vầng Trăng Ký Ức” (2016), và “Có Một Thời Nhân Chứng” (2018).
 

Tuyển tập truyện ngắn “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” bao gồm 18 truyện ghi lại những chuyện đời thường, rất thật và đa dạng của những nhân vật đã trải qua cuộc chiến Việt Nam.  Tập truyện phác họa những mảnh đời muôn màu muôn vẻ, nhưng vẫn mang tính hợp nhất, và cũng là một sự tiếp nối của dòng tư tưởng triết văn của nhà văn Lê Lạc Giao, một dòng tư tưởng triết học vừa uyên thâm vừa thực dụng: nó có tính chất soi sáng mối liên hệ sâu kín giữa truyền thống và định mệnh trên mọi cấp độ, từ cá nhân đến tập thể và thậm chí cho tới cả vận mệnh của một dân tộc. 
 

Có thể nói “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” là “cái-còn-lại” sau những trải nghiệm đau thương qua “Một Thời Điêu Linh”, là “cái-còn-lại” sau những hồi tưởng về tình yêu và chiến tranh khi bạn bè khắp nơi cùng nhìn về “Nửa Vầng Trăng Ký Ức”, là “cái-còn-lại” của “Một Thời Nhân Chứng”: tức là một Nụ Cười Buồn. Để có thể cười (cho dù là cười buồn chăng nữa) sau khi đi xuyên qua những nỗi thống khổ của “Một Thời Điêu Linh”, con người phải rất từng trải.  Từng trải luôn đòi hỏi yếu tố thời gian trong đó. Nhưng thời gian không có lẽ cũng chưa đủ, nó còn cần có sự trầm tĩnh, sự sáng suốt, và quyết định trong sự lựa chọn cho chính mình: Sự lựa chọn làm nạn nhân của Lịch Sử hay nhân chứng Lịch Sử. Trong một bài viết trước về tác phẩm  “Có Một Thời Nhân Chứng” (2018), tôi có viết về ý nghĩa của sự lựa chọn này như sau:
 

“Bốn mươi ba năm chiêm nghiệm, ba tác phẩm, một chủ đề canh cánh, Chiến Tranh và Tình Yêu, Lê Lạc Giao với đức tánh cẩn trọng và thẩm sát của một nhân chứng cho chiến tranh và tình yêu, cùng với những chiêm nghiệm thậm thâm của Ông, chắc chắn sẽ đưa độc giả nhìn lại cuộc chiến tranh Việt Nam từ một góc nhìn rất khác, từ trước tới nay.  Đó là góc nhìn độc lập, không chống đối, không hệ lụy của một Nhân Chứng sống sót sau cuộc chiến tàn khốc.  Khi bị ném vào bối cảnh của chiến tranh, thì sự chọn lựa quyết liệt nhất chính là sự lựa chọn làm nhân chứng hay nạn nhân của lịch sử.  Chính sự lựa chọn một cách dứt khoát này sẽ mang đến cho chúng ta một thái độ sống thích hợp trong chiến tranh. Vì sao? – Vì chỉ có làm nhân chứng của chiến tranh thì mới thấu hiểu được chiến tranh và có cơ hội vượt qua được những hệ lụy lâu dài của chiến tranh mang lại. Về mặt tác dụng và thái độ sống của từng con người, sự lựa chọn đó mang ý nghĩa rất to lớn:  Đó chính là sự lựa chọn giữa Tự Do và Nô Lệ!”
 

Giá trị của 18 tuyển tập truyện ngắn “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” không nằm ở tình tiết éo le gay cấn của truyện kể mà ở những diễn biến nội tâm phức tạp và vô cùng sâu sắc của nhân vật chính. Cốt truyện chỉ là cái nền, nhưng chính trên cái nền của những mảng đời bình thường đó, những tư tưởng thâm sâu, những nhận định rất sắc bén về những vấn đề quan trọng nhất của kiếp nhân sinh được nhà văn Lê Lạc Giao đề cập đến một cách vô cùng khéo léo và tài tình. Bị ném vào bối cảnh lịch sử, bị thế lực vô hình của truyền thống xô giạt vào những định mệnh đời thường, những nhân vật chính trong các truyện ngắn đều có những tư duy trăn trở để tìm ra lối thoát riêng cho chính mình: Có khi là hội họa, là sáng tạo, là rượu, là bạn bè, hay tìm về nguồn cội của gia phả v.v...   
 

Xin dẫn ra đây một vài chủ đề chính mà tôi cảm nhận được khi đọc qua 18 truyện ngắn của anh Lê Lạc Giao:

(1)   Vấn đề của Tự Do và và Nô Lệ trong từng tư tưởng và vai trò thiết yếu của Tự Do trong sáng tác nghệ thuật.

(2)   Những hệ lụy lâu dài và đau xót của chiến tranh và phế tích của ký ức vẫn còn đè nặng trên tâm thức của người tham chiến.

(3)   Sự cô đơn và bất lực của con người qua những bối cảnh lịch sử khác nhau, cho dù là chiến tranh hay hòa bình với một nền công nghệ kỹ thuật phát triển vượt bực.

(4)   Quan niệm của sáng tác nghệ thuật và vai trò của người nghệ sĩ, trong từng bối cảnh lịch sử khác nhau.

(5)   Mối liên hệ sâu kín giữa Truyền Thống và Định Mệnh và sự khuếch tán của âm bản truyền thống trong định mệnh đời thường.

  

Những truyện ngắn của Lê Lạc Giao không những là những nét chấm phá nội tâm rất súc tích, gần gũi với đời thường mà còn mang nặng tính triết học và nhân văn rất cao.  Nhà văn Lê Lạc Giao cũng là một trong những sáng lập viên của nhóm nghiên cứu Triết Văn (với trang mạng tại địa chỉ: www.trietvan.com) quy tụ các nhà nghiên cứu Triết Học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và các thân hữu. 
 

Xuyên suốt trong các tác phẩm của nhà văn Lê Lạc Giao, chúng ta nhận thấy Lê Lạc Giao luôn canh cánh trong lòng những tư duy về ý nghĩa của cuộc chiến tranh và hệ lụy lâu dài của nó trong lịch sử dân tộc.  Và hơn thế nữa, với tâm trạng định tĩnh của một nhân chứng, Lê Lạc Giao còn cho chúng ta một “nhãn quan” mới mang đậm tính triết học thực dụng, một thứ triết học không qua sách vở giáo điều mà qua sự cẩn trọng thẩm sát và kinh nghiệm của tự thân. Chính triết học thực dụng này đã nhận ra mối liên hệ mật thiết giữa truyền thống và định mệnh.  


 

Theo nhà văn Lê Lạc Giao thì: “Trên sân khấu đời, người ta có thể vừa tung hô truyền thống vừa nguyền rủa định mệnh mà không nhận ra định mệnh chỉ là hóa thân của truyền thống, cũng như nạn nhân cũng là một thứ âm bản của truyền thống.”
 

Theo chỗ tôi hiểu về ý nghĩa của nhận định rất sâu sắc của nhà văn Lê Lạc Giao một cách rộng rãi như sau:  Âm bản là một thứ phim có tác dụng “đổi trắng thành đen”, tác dụng của truyền thống trong xã hội cũng vậy, tuy bề mặt cạn cợt có vẻ thiện lành, nhưng tác dụng của nó phần nhiều chỉ làm con người đau khổ.  Khi âm bản truyền thống khuếch tán thành những định mệnh đời thường, nó diễn tiến một cách thầm lặng: nó len lỏi trong từng ngóc ngách của đời sống, từng suy nghĩ, từng hành vi của mỗi cá nhân. Truyền thống chảy vào tư duy của chúng ta dưới hình thức “sự thật hiển nhiên” nên nó ngăn cản tư duy đặt lại vấn đề từ đầu nguồn, và thế hệ này qua thế hệ khác con người làm khổ nhau nhân danh truyền thống.
 

Khi truyền thống không được cẩn trọng thẩm sát, không bị sàng lọc, hậu quả thật khôn lường. Áp lực của truyền thống phối hợp với thói quen kiêng nể, thói quen chịu đựng, thói quen nhẫn nhịn để tránh xung đột, để được yên thân, sẽ làm cho cá nhân tự đánh mất chính mình.  Nó biến người thành nộm, biến tự do thành nô lệ.
 

Nhìn từ khía cạnh này, truyền thống nếu được chấp nhận vô điều kiện và không bị cật vấn hay thẩm sát sẽ trở nên một thế lực vô hình, sẽ khuếch tán “âm bản” của nó vào những định mệnh đời thường.
 

Mười tám truyện ngắn trong tác phẩm “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” là mười tám họa phẩm của những tâm hồn, những mảng đời bị xô giạt sau cuộc chiến của “Một Thời Điêu Linh”, là mười tám “âm bản” của truyền thống đã phân thân thành định mệnh đời thường, là mười tám nỗ lực của từng cá nhân để tìm lại chính mình, tìm lại ý nghĩa của đời sống. Tất cả chỉ nhắm tới MỘT mục đích duy nhất, tức là Tự Do.
 

Tự Do vừa là mục đích nhắm tới, vừa là điều kiện tiên quyết để cá nhân có thể tìm lại chính mình, vừa là một sự lựa chọn luôn luôn mở ra trong tâm thức con người trong từng phút từng giây.  Có khi Tự Do phải trả giá rất đắt: bằng sự cô độc tận cùng ngay trong đời sống này, hay là sự cô độc rốt ráo tuyệt đối của cái chết.  Bàng bạc trong các truyện ngắn của Anh Lê Lạc Giao, tôi nhận ra cái giá phải trả cho sự Tự Do của một cá nhân còn sống, còn hít thở: Sự Cô Đơn tận cùng dù là đang ở kề cạnh một cô gái đẹp mang tên Marcela, cùng với rượu và nhạc Jazz trong nightclub:
 

Rượu, nhạc và Marcela làm anh ngây ngất. Tiếng kèn như gào khóc một thời quá vãng. Những cảm xúc đột ngột hồi sinh, anh nghe trong vòng tay một hình thể yêu dấu một thời. Đó là thể xác, là khối vật chất nóng bỏng và khi anh siết vòng tay, khuôn mặt từ từ hiện ra trong vòm sáng. Từ đôi mắt nâu to thăm thẳm, anh thấy hiện lên cả nỗi tuyệt vọng và niềm hy vọng của mình. Anh còn thấy cả vũng tối khủng hoảng điên dại, câm nín, giam hãm mình trong bức tường cô quạnh thời gian. Có một nụ cười rạng rỡ, đằm thắm vực dậy cả một quê hương mà anh tưởng đã tan rã từ lâu. Anh thì thầm, “Marcela, anh thấy thiên đường trong đôi mắt em.” Nàng cười bằng ánh mắt và nói vào tai anh, “Em tin như thế, vì mắt anh đã mọc cánh.” (Marcela)
 

Hay là:

Anh nhìn góc phố tối đi vì một vầng mây đang trôi qua trên cao. Cuộc sống của anh cũng tối sáng như thế. Nỗi cô đơn không phút giây rời anh, cả trong lúc anh nghĩ rằng mình đang vui vẻ nhất. Xúc cảm trong tâm hồn như dòng sông xa nguồn không bao giờ trở lại, thì nỗi cô đơn kia dựng lên bao chướng ngại cản ngăn mọi ước muốn cần thiết cho một tương lai! (Quê Nhà của Kẻ Tha Hương)
 

Tự Do hay Nô Lệ, Tự Do hay là Chết, Nạn Nhân hay Nhân Chứng, Cô Đơn để là chính mình hay là hòa nhập để đánh mất chính mình.  Đó là những chọn lựa rất khó mà các nhân vật chính, sau khi bị ném vào bối cảnh lịch sử của cuộc chiến Việt Nam bị buộc phải chọn lựa cho chính mình.  Chính sự lựa chọn này mang lại ý nghĩa cuộc sống.
 

Nhà văn Lê Lạc Giao, với tinh thần tận tụy cống hiến cho nền triết văn, cho sự sáng tạo bền bỉ, đã tự mình lựa chọn cho chính mình.  Anh Lê Lạc Giao đã nhập vào vai chính của sân khấu đời này với vai diễn của một nhà văn, một người cầm bút chân chính, anh đã chọn làm Nhân Chứng của Lịch Sử, anh đã soi sáng mối liên hệ sâu kín giữa truyền thống và định mệnh, đã mô tả làm thế nào những âm bản truyền thống đã tự sao chép chính nó thành những định mệnh đời thường. Và hơn thế nữa anh đã cho chúng ta thấy cuộc chiến quan trọng nhất mà chúng ta ai cũng phải đối diện: Cuộc chiến chống lại các áp lực từ bên ngoài để được tự do là chính mình.  Cuộc chiến này phải dành được chiến thắng bằng mọi giá, thất bại sẽ là một đời sống nô lệ, cuộc chiến này phải trả giá đôi khi bằng trăm năm cô đơn vì nếu không thắng cuộc chiến nội tâm này, thì đời sống không có ý nghĩa gì. 

Xin trân trọng ghi lại đôi dòng cảm nhận này thay cho lòng tri ân của tôi đối với một người anh, một người bạn vong niên mà tôi rất kính trọng, một nhân cách tuyệt vời và những lựa chọn rất quyết liệt mà anh đã can đảm thực hiện bao nhiêu năm qua, để sáng tạo bền bỉ và cống hiến cho người đọc. Xin trân trọng giới thiệu tác phẩm “Nụ Cười Buồn Mùa Hè” của nhà văn Lê Lạc Giao đến quý độc giả gần xa.

Tô Đăng Khoa



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 2020 trôi qua với nhiều biến động lớn lao mà đại dịch Covid-19 là sự kiện nổi bật nhất sẽ còn ảnh hưởng lâu dài đối với đời sống hàng ngày của toàn nhân loại. Ngoài những khủng hoảng trầm trọng mà đại dịch đã tạo ra cho kinh tế và sức khỏe của con người trên toàn hành tinh, còn có những thay đổi lớn lao đối với các sinh hoạt văn hóa, giáo dục, tôn giáo, v.v… Ngày nay, đi bất cứ ở đâu chúng ta đều thấy mọi người đeo khẩu trang và giữ khoảng cách hơn một mét rưỡi với người khác. Khẩu trang trở thành hình ảnh thời đại đối với mọi tầng lớp xã hội. Khoảng cách giữa người với người đã thành một thứ bức tường vô hình tạo ra một khoảng trống vắng bao quanh con người. Không còn nơi nào trên thế giới là an ổn. Nỗi bất an không chỉ ở bên ngoài mà còn nằm bên trong tâm thức con người!Và còn một điều kinh dị khác mà trước đây í tai nghĩ tới. Đó là cái chết bất ngờ, rộng khắp và không thể tiên liệu được. Người già chết, giới trung niên chết, thanh niên chết. Con Covid-19 có thể gõ cửa
Câu chuyện về bản nhạc này bắt đầu khi một linh mục trẻ là Cha Joseph Mohr, đến Oberndorf một năm trước. Ông đã viết lời của bản nhạc “Stille Nacht” vào năm 1816 tại Mariapfarr, một thị trấn quê nhà của cha của ông tại vùng Salzburg Lungau, nơi Joseph làm việc trong vai trò một đồng trợ lý. Giai điệu của bản nhạc được sáng tác bởi Franz Xaver Gruber là hiệu trưởng và nhạc sĩ chơi đàn organ tại ngôi làng bên cạnh làng Arnosdorf, mà ngày nay là một phần của thị trấn Lamprechtshausen của Áo. Trước Christmas Eve, Mohr đã đem lời nhạc tới cho Gruber và nhờ ông viết giai điệu và đệm guitar cho buổi trình diễn công chúng vào dịp Christmas Eve, sau khi nước lụt của con sông đã làm hư cây đàn organ của nhà thờ. Cuối cùng nhà thờ đã bị phá hủy bởi nhiều trận lụt và đã thay thế bằng Nhà Nguyện Silent Night. Điều không rõ là điều gì đã tạo cảm hứng cho Mohr viết lời nhạc, hay điều gì đã khiến vị linh mục trẻ này viết ca khúc mừng Giáng Sinh mới, theo Bill Egan trong tác phẩm
Vào mùa xuân năm 1984, Tiến sĩ Tôn Nữ Nha Trang đã bỏ ra nhiều tuần lễ tham khảo các tài liệu về văn học Miền Nam lưu trữ tại các thư viện đại học Mỹ. Sau đó bà liên lạc với các nhà văn, nhà báo Việt tị nạn tại Mỹ để xin gặp và phỏng vấn.
Thơ là chữ viết, nhưng thơ cũng là giữa những dòng chữ. Thơ là lời nói ra, nhưng thơ cũng là giữa những lời nói ra, hiển lộ cả trước và sau lời nói ra. Thơ là ngôn ngữ và thơ cũng là vô ngôn, là tịch lặng. Và là bên kia của chữ viết, bên kia của lời nói. Khi đọc xong một bài thơ hay, khi không còn chữ nào trên trang giấy để đọc nữa, chúng ta sẽ thấy thơ là một cái gì như sương khói, mơ hồ, lung linh, bay lơ lửng quanh trang giấy. Cũng như thế, Kinh Phật là thơ, là lời nói, là tịch lặng, là bên kia ngôn ngữ. Khi bài Tâm Kinh đọc xong, khắp thân tâm và toàn bộ ba cõi sáu đường đều mát rượi, ngấm được cái đẹp của tịch lặng ẩn hiện bên kia những chữ vừa đọc xong. Cội nguồn thơ, cũng là cội nguồn Kinh Phật, đó là nơi của vô cùng tịch lặng, một vẻ đẹp như sương khói phả lên những gì chúng ta nhìn, nghe, cảm xúc và hay biết. Chúng ta có thể kinh nghiệm được cái tịch lặng. Nó không phải là âm thanh, cũng không phải là cái vô thanh. Khi chúng ta gõ lên một tiếng chuông, tịch lặng
Các nhà thơ nổi danh trong phong trào thơ mới đã để lại cho nền văn học Việt Nam những kiệt tác được ghi nhớ và lưu truyền. Đồng thời với tự do về hình thức của thể thơ, văn nghệ sĩ còn được tự do diễn đạt tư tưởng, quan điểm và lập trường của minh đối với con người, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng mặc dù đang sống dưới sự cai trị của thực dân Pháp.
Không phải đến bây giờ con mới nhớ Phật để viết lá thư này, thật tình thì lúc nào con cũng nhớ Phật cả, tuy nhiên cũng có đôi khi con trốn Phật đi theo đám ma quân ngũ dục để làm những việc sai quấy hòng thỏa mãn cái tôi ích kỷ của mình. Đấy chính là lý do mà hôm nay con viết lá thư này, cứ mỗi lần theo đám ma quân ấy, làm việc gì đó trái với thanh tịnh, hiền thiện thì con laị sanh tâm sám hối. Khổ nỗi sám hối rồi một thời gian sau laị tái phạm nữa
Emily Elizabeth Dickinson được sinh ra tại thành phố Amherst thuộc tiểu bang Massachusetts vào ngày 10 tháng 12 năm 1830 trong một gia đình nổi tiếng nhưng không giàu có. Cha bà, ông Edward Dickinson là một luật sư tại Amherst và là thành viên của hội đồng quản trị Đại Học Amherst College. Ông nội của Emily Dickinson, Samuel Dickinson, là một trong những người sáng lập Đại Học Amherst College. Tất cả tài liệu cho thấy lúc trẻ Emily là người con gái thuần hậu. Lúc còn bé bà học trường mẫu giáo được xây trên đường Pleasant Street. Cha của bà là người muốn các con học hành thành đạt nên ông quan tâm theo dõi kỹ việc học của các người con cho dù bận rộn công việc.Vào ngày 7 tháng 9 năm 1840, Dickinson và người chị Lavinia bắt đầu vào Trường Amherst Academy, trường này trước đó là trường nam sinh nhưng đã mở cửa đón nữ sinh trong vòng 2 năm trước. Cùng năm này, cha bà đã mua một căn biệt thự nằm trên đường North Pleasant Street. Căn nhà nhìn ra khu nghĩa trang được một mục sư địa phương
Thiên Lý Độc Hành, chuỗi thơ 13 bài, hình thành sau chuyến đi ấy. Nó mở đầu bằng sự trở về, và kết thúc bằng lời gởi gắm một bước chân khác lên đường. Đi cho hết con đường thăm thẳm nhân sinh trường mộng. Hai câu kết để ta đóng lại tập thơ mà không đóng lại được những tâm tình khắc khoải, tương điệu trước một vệt nắng chiều hay một ánh sao xa lay lắt cuối trời. Lời nhắn nhủ ân cần không phải là sự êm đềm khép lại cánh cổng vườn nhà sau khi người con đã trở về, nó mở ra lối sau chỉ về một phương trời miên man cô tịch…Mưa lạnh/ đèo cao/ không cõi người./ Phương trời mờ ảo với ánh sao đêm làm đèn soi lối, lấy ánh trăng trên cỏ làm chiếu mà nằm, để sáng ra tiếp tục cuộc đi mà không biết đêm nay sẽ ở đâu, có “may mắn” tìm được một chỗ ngủ kín gió không. Có khi chỗ đó là cái miếu cô hồn bên đèo vắng, có khi là phía sau cái bệ con sư tử đá khổng lồ trước cổng tam quan một ngôi chùa, nơi có một hốc nhỏ đủ cho một người nằm khuất tầm nhìn khách qua đường. Nghỉ chân và chợp mắt
Nhà văn Hoàng Hải Thủy tên thật là Dương Trọng Hải vừa qua đời ngày 6 tháng 12 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Hưởng thọ 88 tuổi. Ông là nhà báo, nhà văn viết mạnh nhất với nhiều thể loại trong gần 7 thập niên qua với các bút hiệu: Công Tử Hà Đông, Ngụy Công Tử, Con Trai Bà Cả Đọi, Hạ Thu, Hồ Thành Nhân, Văn Kỳ Thanh, Dương Hồng Ngọc, Triều Đông, Người Sài Gòn…
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.