Hôm nay,  

Như Đã Có Nhau

20/03/202117:02:00(Xem: 3326)


C:\Users\Brad\Desktop\hoa quyet que.png

 

Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít.  Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời.  Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.

Nhạc sĩ Minh Huy vô cùng mẫn cảm khi chọn một bài thơ thật hay để phổ nhạc, rồi hòa âm và phối khí suốt đêm chỉ với một chiếc đàn guitar vừa làm đàn vừa làm trống trong một phong cách nghệ sĩ tuyệt vời.  Cô giáo Chi Huệ đã hòa nhập tâm hồn của cô vào từng ca từ hết sức nhập vai như gửi gắm tâm tình của chính cô vào từng nốt nhạc với âm giai tha thiết gợn buồn.  Có lẽ Nhạc sĩ Minh Huy và Ca sĩ Chi Huệ đã cảm nhận bài thơ Tạ Tình của Nữ sĩ Từ Hoa là một bài thơ thật hay và rất đẹp với hình ảnh vừa thơ mộng vừa lãng mạn của một nữ lưu tài hoa thuộc môi trường văn hóa của Miền Nam nước Việt trước năm 1975.

https://www.youtube.com/watch?v=vL1AHaiuTjQ

TẠ TÌNH

Nhạc:        Minh Huy
Lời thơ:    Từ Hoa
Tiếng hát: Chi Huệ

Em đã nợ anh một khối tình

Đã từng trả hết thuở đầu xanh

Bây giờ tóc trắng, dòng dư lệ

Nguyệt quế ngày xưa chốn cổ thành.

 

Em cũng nợ anh một tấm lòng

Từ dòng vô định chảy thành sông

Từ trong thiên cổ rơi thành lệ

Giọt lệ cho người khi nhớ mong.

 

Em vẫn nợ anh một tiếng cười

Nợ rừng, nợ suối, nợ bờ môi.

Trong tim em giữ dòng kinh cũ

Nhắn với trời cao gởi đến người.

 

Nếu chẳng bao giờ ta gặp lại nhau

Câu thơ em trao, xin để lại ngàn sau

Từ trăm năm trước, duyên và nợ

Đã trả hết rồi, sao tình hoài nhớ nhau.

 

Hiên văn ai nhớ dấu hài,

Mở trang cổ tích trăng cài song thưa.

Hương trời một thoáng duyên xưa,

Hoá thành một áng mây đưa cuối trời.

 

Bài thơ Tạ Tình thuộc thể thơ bảy chữ gồm bốn khổ, mỗi khổ bốn câu, và tất cả là mười sáu câu.  Lời thơ thanh nhã; ý thơ lãng mạn; vần gieo thống nhất trong cả bốn khổ thơ một, hai, và bốn; nhịp điệu 4/3 rất đều và rất dễ ngâm; âm thanh xuôi chảy nhẹ nhàng như một dòng suối nhỏ với tiếng róc rách như thì thầm tha thiết mang tính trầm buồn.  Nhưng trên hết, nội dung của bài thơ mới là điều thật đáng trân trọng.  Tuy chỉ có mười sáu câu thơ mà bài thơ trang trải được Phật lý rất uyên áo về kiếp người, về tái sinh, về duyên và nghiệp, và về tình yêu nam nữ trong chuổi dài truyền kiếp của con người.

Bài thơ như một tự truyện kể về mối tình của người con gái trong tuổi chớm yêu khi nàng tình cờ gặp chàng mà nàng nghĩ rằng nàng và chàng như đã có nhau từ trăm năm trước hay trong nhiều thế kỷ trước.  Nàng như thấy rõ hình ảnh xa xưa trong tiềm thức của nàng là nàng đã từng nhận và cũng đã từng trả hết mối chân tình của chàng nơi đất xưa khi nàng còn là một cành hoa Nguyệt Quế.

Em đã nợ anh một phiến tình
Đã từng trả hết thuở đầu xanh
Từ trăm năm trước, trăm năm trước
Nguyệt quế ngày xưa chốn cổ thành.

Người con gái cảm nhận được tình cảm tuyệt đẹp của chàng dành cho nàng, nhưng đồng thời nàng cũng thấy rằng tình yêu vốn là một trong muôn vạn dòng sầu tuôn chảy như ngàn dòng sông lệ của cõi người vì sự chia xa và tính não phiền nhân thế.

Em lại nợ anh một tấm lòng
Từ dòng vô định chảy thành sông

Từ trong thiên cổ rơi thành lệ
Hạt lệ cho đời, anh biết không.

Lúc quen nhau, nàng đã từng hỏi chàng về ý nghĩa của một số từ ngữ Phật học và đã nhận được một tác phẩm văn học Phật giáo như là một quà tặng của chàng.  Dấu ấn của dòng kinh xưa đã in đậm nét trong lòng người con gái.  Hiểu rõ lẽ nghiệp duyên triền miên như thế nên nàng đã nhờ cánh chim xanh mang những dòng kinh này đến đặt bên gối nằm của chàng như là những dòng chữ đà-ra-ni mà Đức Phật đã truyền dạy cho Tôn giả A-nan-đà khiến mối sầu chia cách trở nên nhẹ nhàng hơn.

Em vẫn nợ anh một tiếng cười
Nợ rừng, nợ suối, nợ mà thôi
Trong tay em giữ dòng kinh cũ
Nhắn với chim xanh gởi đến người.

Và cuối cùng nếu mọi diễn biến chẳng được như ý và nàng không bao giờ được gặp lại chàng thì bài thơ nàng viết cho chàng xin được lưu lại với thời gian để tặng cho cõi sầu của thế nhân.

Nếu chẳng bao giờ gặp lại nhau


Câu thơ em để với nghìn sau
Từ trăm năm trước, trăm năm trước
Thả gió mang đi tặng cõi sầu.

Nhà thơ Trần Văn Lương khi đọc bài thơ Tạ Tình đã viết,

“Bài thơ Tạ Tình của Thi sĩ Từ Hoa là tuyệt tác.  Tôi thật xúc động và bồi hồi khi đọc bài thơ này, giống như cảm xúc ngày xưa khi đọc thơ của TTKH.  Lời thơ rất chân thành, xoáy vào tận con tim, không thua gì thơ TTKH.  Bài thơ hay cả nội dung -- tình cảm chất chứa bên trong rất nhẹ nhàng nhưng cũng thật sâu đậm -- lẫn hình thức -- kỹ thuật thơ bảy chữ rất vững vàng, không chê vào đâu được. Hy vọng Nhà thơ Từ Hoa sáng tác thật nhiều.

Đọc thơ người ấy những chờ mong,

Chợt thấy bâng khuâng, nát cả lòng,

Thuở ấy tình sao trân trọng quá,

Để trăm năm lệ vẫn tuôn dòng.”

 

Và một Nhà thơ, bạn thân của người viết, sau khi hết lời khen ngợi bài thơ Tạ Tình thì có hỏi người viết, một Nhà thơ tài hoa như vậy thì không thể nào chỉ sáng tác một bài thơ mà chắc rằng đã có những thi phẩm nổi tiếng trên văn đàn chăng?

Để hồi đáp câu hỏi của Anh bạn này, người viết xin trân trọng giới thiệu Nữ Cư sĩ Phật giáo Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm qua một trong những đường dẫn có đăng các tác phẩm, các bài viết, và các thi phẩm của tác giả.

 

http://tangthuphathoc.net/tu-hoa-nhat-tue-tam/

 

Đồng thời xin trích dẫn thêm một bài thơ của Nhà thơ Từ Hoa sau bài thơ Tạ Tình.

 

TẠ TÌNH

Từ Hoa

Em đã nợ anh một phiến tình
Đã từng trả hết thuở đầu xanh
Từ trăm năm trước, trăm năm trước
Nguyệt quế ngày xưa chốn cổ thành.

Em lại nợ anh một tấm lòng
Từ dòng vô định chảy thành sông
Từ trong thiên cổ rơi thành lệ
Hạt lệ cho đời, anh biết không.

Em vẫn nợ anh một tiếng cười
Nợ rừng, nợ suối, nợ mà thôi
Trong tay em giữ dòng kinh cũ
Nhắn với chim xanh gởi đến người.

Nếu chẳng bao giờ gặp lại nhau
Câu thơ em để với nghìn sau
Từ trăm năm trước, trăm năm trước
Thả gió mang đi tặng cõi sầu.


 

LÒNG ĐÃ NHƯ MÂY

Từ Hoa

 

Gió theo lối đào

Hoa xuôi thuyền non vắng

Áo ai gói vàng mây, bay trong hoàng hôn

Ngọc Tuyền còn reo

Lời vàng đưa theo

Hoa lá đơm cành xanh tươi

Bóng in lòng suối

Dáng ai xa vời

Đất như còn mới

Thơm lối hoa đào rơi.

 

Thiên Thai, đóa sen ngát hồng tay

Âm vang mười phương tấu khúc nhạc này.

Thiên Thai, phiến kinh xưa còn đây

Tay buông ngời trăng nước sum vầy

Ai mang tờ kinh cũ tìm về

Trong tiếng chuông giục lòng quê.

 

Thiên Tiên, núi cao mây xanh tiên lồng bóng hoàng hoa,

Hoá thân thiên duyên ai ngờ đã bao lần qua dòng đời.

Thiên Thai, đứng trông xa xăm non lồng bóng trời mây,

Biết chăng đâu đây ba nghìn cõi trong một tâm vơi đầy.

 

Về đây đêm nay lòng đã như mây

Theo gió Xuân vàng non biếc

Lòng suối Ngọc xưa kết từng hạt sương mai trong mắt hồng thơ ngây.

Hồn quê theo chân về chốn cũ

Nhìn non tiên

Lòng vui khúc hát đoàn viên.

 

Thiên Thai, bóng ai xưa kia trăng cài áo trầm vương

Bút son đôi câu bao lần đã thay ngọc châu tặng người.

 

Ngắt cánh đào cuối Đôn

Ném xuống lòng suối trong

Hoá muôn nghìn cánh bướm

Bay về giữa trời Không.

 

Đào nguyên đó

Mây nước đâu quên người

Vườn đào xưa

Dòng kinh thiên thu

Khói thơm quyện dòng kinh thơm.

Áo hoa nhuộm hồng mây cõi tiên.

 

Bài thơ Lòng Đã Như Mây đã được Nhạc Sĩ Minh Huy phổ nhạc qua nhạc phẩm Gió Theo Lối Đào với sự rút ngắn các khổ thơ và được Cô giáo Chi Huệ trình bày.

https://tangthuphathoc.net/gio-theo-loi-dao/

GIÓ THEO LỐI ĐÀO

Nhạc:        Minh Huy
Lời thơ:    Từ Hoa
Tiếng hát: Chi Huệ

Thiên Thai, sen ngát hồng tay

Âm vang, tấu khúc nhạc hay

Tiếng kinh xưa còn đây

Tay buông, trăng nước sum vầy

Ai mang tờ kinh cũ, tìm về trong tiếng chuông.

Gió theo lối đào, hoa xuôi thuyền non vắng

Áo ai gói vàng, mây bay trong hoàng hôn

Dáng ai khuất dần, trăng mờ bên suối

Ngọc Tuyền còn reo, lời vàng đong đưa theo lối hoa đào rơi.

Thiên thai, núi cao trời xanh, ôm bóng hoàng hoa

Thiên duyên, hóa thân từ đâu, thị hiện trong cõi đời này

Biết chăng đêm nay, ba nghìn cõi, một tâm vơi đầy.

Thiên thai, dáng ai ngày xưa, in bóng tà dương

Đêm nay, kết tinh hạt sương, về đây trong ánh mắt hồng

Hồn quê xa xăm, tìm về chốn cũ, tình xưa ngậm ngùi.

Đào nguyên đó, mây nước đâu quên người

Lời kinh thiên thu, quyện vào hư không.

 

Trần Việt Long

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
Văn học luôn được xây dựng trên tác giả, tác phẩm và độc giả, với những cơ chế tất yếu là báo, tạp chí văn học, nhà xuất bản, mạng lưới văn chương, và phê bình. Gần đây thêm vào các phương tiện thông tin xã hội. Trên hết là quyền lực xã hội nơi dòng văn học đang chảy, bao gồm chính trị, tôn giáo. Giá trị của một giai đoạn văn học được đánh giá bằng những thành phần nêu trên về sáng tạo và thẩm mỹ qua những cơ chế như tâm lý, ký hiệu, cấu trúc, xã hội, lịch sử… Việc này đòi hỏi những nghiên cứu mở rộng, đào sâu theo thời gian tương xứng.
Có lần tôi đứng trước một căn phòng đầy học sinh trung học và kể một câu chuyện về thời điểm chiến tranh Việt Nam chấm dứt, về việc tôi đã bỏ chạy sang Mỹ khi còn nhỏ, và trải nghiệm đó vẫn ám ảnh và truyền cảm hứng cho tôi như thế nào, thì một cô gái trẻ giơ tay hỏi tôi: “Ông có thể cho tôi biết tại sao cha tôi không bao giờ kể cho tôi nghe về cuộc chiến đó không? Cha tôi uống rượu rất nhiều, nhưng lại ít nói.” Giọng nói cô run rẩy. Cô gái bảo cha cô là một người lính miền Nam Việt Nam, ông đã chứng kiến nhiều cảnh đổ máu nhưng nỗi buồn của ông phần nhiều là trong nội tâm, hoặc nếu đôi khi thể hiện ra ngoài thì bằng những cơn thịnh nộ.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
“Cơn mưa di tản trở về giữa quá khứ và hiện tại, giữa người chết và người sống. Đó là lăng kính mà mọi thứ đã được chắt lọc qua. Những năm tháng trở nên trong suốt như nước. Những gì chúng ta thấy là những hình dạng mờ nhạt đang trôi về nguồn. Tất cả những viễn cảnh và cách diễn giải của chúng ta khi chúng ta quay trở về là đường nét chuyển động của người khác. Để tồn tại, chúng ta đã di tản qua thời gian, và để nói, chúng ta học ngôn ngữ của mưa.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.