Hôm nay,  

Cung Tích Biền Ra Mắt Sách Mừng 65 Năm Cầm Bút

17/10/202109:35:00(Xem: 3878)

 

blank

Đặng Thơ Thơ (phải) nói về tác phẩm Cung Tích Biền (thứ 2 từ phải).

  

 

Nhà văn Cung Tích Biền hôm Thứ Bảy 16/10/2021 đã thực hiện buổi ra mắt sách tại quán Café & Té, Fountain Valley, với tham dự của nhiều văn nghệ sĩ.

Nhà văn Đặng Thơ Thơ trong lời giới thiệu nói rằng buổi ra mắt sách này cũng là tròn kỷ niệm 65 năm viết văn, và là tròn 55 viết văn với bút hiệu Cung Tích Biền.
 

Hiện diện trong buổi ra mắt sách có nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà báo, ca sĩ, họa sĩ… trong đó có:  Nhã Ca, Phạm Phú Minh, Trịnh Y Thư, Trịnh Thanh Thủy, Vương Trùng Dương, Nguyễn Thanh Huy, Đặng Thơ Thơ, Paulina Dam, ca sĩ Thu Vàng, Thân Trọng Mẫn, Đặng Phú Phong, Lê Giang Trần, Phạm Quốc Bảo, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Đình Thuần và phu nhân, Mai Tất Đắc và phu nhân, Lê Phước Bốn, Nguyễn Hà và phu nhân…

 

Cùng nổi bật trong buổi ra mắt sách là phu nhân của nhà văn Cung Tích Biền. Người sắp xếp, mệt nhọc nhất trong buổi ra mắt sách này là chị Hoàng Thi Kim, phu nhân của nhà văn, cũng là người mà nhà văn Cung Tích Biền từng ghi nhận rằng: “Từ năm 2000 đến nay Hoàng Thị ăn chay trường. Thuộc nhiều kinh Phật, nghiên cứu kinh Dịch, rất giỏi phong thuỷ. Sớm mai thường trực tụng kinh. Chiều chiều đi chùa. Nói chung, tôi xin cảm ơn Phật Bà Quán Thế âm.” (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 97) 

 

blank

Từ phải: Cung Tích Biền và phu nhân Hoàng Thị Kim, Nhã Ca, Đặng Thơ Thơ, Trịnh Y Thư (ngồi).

 

.

Trong các sách nhà văn Cung Tích Biền giới thiệu hôm Thứ Bảy có 3 sách được nhiều nhà phê bình văn học chú ý thời gian qua:

--- Bạch Hóa, tập truyện ngắn, 230 trang.

--- Nhạc Điệu Của Bầy Ong, tập truyện ngắn, 250 trang.

--- Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, tuyển tập các bài phỏng vấn nhà văn Cung Tích Biền thực hiện bởi Lý Đợi, Mặc Lâm, Đặng Thơ Thơ, Tuần báo mạng Da Màu, Phạm Viêm Phương, 328 trang.

.

blankBìa sách

.

Nhà văn Cung Tích Biền nói rằng ông trước giờ chưa từng ra mắt sách, nhưng qua đây là cơ duyên hy hữu nên muốn tiếng nói được nghe nhiều hơn. Ông dự kiến sẽ ra mắt 5 cuốn sách mới vào tháng 4/2022. Ông nói đó là những tác phẩm chưa từng được in chính thức ở Việt Nam, mà khi còn ở Việt Nam ông chỉ in chui một số với ấn phẩm hạn chế, đó là một thời vô cùng cực khổ, qua đây thật là hạnh phúc lớn lao.

 

Trả lời phỏng vấn riêng của Việt Báo, nhà văn Nhã Ca đã nói: “Trước 1975, cùng thời, đã đọc sách Cung Tích Biền. Sau 1975, hoàn toàn không gặp nhau. Gần đây, nhà văn Cung Tích Biền tới Hoa Kỳ, lại viết. Thế là lại đọc. Sẽ đọc 3 cuốn sách mới và biết rằng, lối viết Cung Tích Biền càng già như gừng, càng già càng cay. Mừng nhà văn Cung Tích Biền.”

Cả 3 sách trên đều do nhà xuất bản Thao Thao ấn hành. Độc giả có thể đặt mua ở email:

[email protected]

.

 

 

Trong tuyển tập truyện ngắn Bạch Hóa, nơi Phụ Lục 2, trang 226, có ghi nhận định của nhà thơ Du Tử Lê về văn chương Cung Tích Biền:

"Với tôi, Cung Tích Biền là một biệt lệ. Càng bước gần tuổi tám mươi, bút lực của ông càng sung mãn; với một tâm thái bát ngát minh triết, chứa chan những hồi chuông nhân bản, lai tỉnh xã hội càng lúc càng biến dạng. Quái thai.

Chọn cho mình một chân trời chữ nghĩa mới. Chân trời hư huyễn máu, xương, những trang văn của Cung Tích Biền như những tấm gương chói lọi nỗi buồn và niềm đau kín kẽ. Ông mặc khoác cho hư huyễn, cho ẩn dụ văn chương của ông, chiếc áo thời thế. Ông đi giầy, mang vớ cho hư huyễn truyện của ông... Rất nhiều thành tựu ngời ngợi chữ-nghĩa-hôm-nay của Cung Tích Biền.

Tôi muốn nói, dù phải sống với oan khiên, như vết chàm, như chiếc bóng định mệnh bất hạnh đời mình, nhưng, cuối cùng, họ Trần vẫn không hề lỗi hẹn với văn chương. Chẳng những thế, ông còn cho chữ và, nghĩa của ông, những khấp báo trầm thống!

Ông là một nhà văn miền Nam, sau biến cố 1975, xứng đáng với hai chữ Nhà-Văn-viết-hoa." (Bạch Hóa, trang 226)

.

  

blank

Hình phải: Họa sĩ Nguyễn Đình Thuần (đứng) và Cung Tích Biền. Hình trái, từ phải: Thành Tôn, Trịnh Thanh Thủy. Người áo đỏ là ca sĩ Thu Vàng.

 

.

Truyện "Anh em cùng một mẹ" của nhà văn Cung Tích Biền, in trong tuyển tập truyện ngắn "Nhạc Điệu Của Bầy Ong" ghi nhận hình ảnh bi thảm quê nhà. Nơi đó, bà mẹ có những đứa con hai bên chiến tuyến. Nhân vật tên Bá Quyền là anh, từ Bắc vào Sài Gòn sau 1975, tới thăm đứa em trai là một thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Trích đoạn nơi đây là trang 92-94, cô gái trong trích đoạn này là con của anh thương binh VNCH:

 

"...Bá Quyền nhìn người chống nạng, hỏi:

- Bao nhiêu năm xa cách, lúc gặp nhau chú không chào tôi à?

Người chống nạng trả lời:

- Anh phải là người mở lời trước.

- Sao vậy?

- Vì sao các anh đã hiểu.

Cô gái rót hai tách nước lã. Lễ phép vòng hai tay trước ngực mời khách:

- Dạ, mời bác uống nước.

Bá Quyền nhìn cô gái xinh đẹp nói:

- Có gì phải vòng hai tay?

Người cụt chân nói:

- Đây là Miền Nam. Giáo dục của chúng tôi là vậy. Lễ phép với mọi người. Hòa nhã, giúp đỡ phụ nữ, trẻ em, người già cả. Ra đường gặp đám tang, nhường đường, đứng yên, ngả mũ chào. Xã hội này lạ lẫm với các anh nhiều lắm.

Quyền nhận ra người chống nạng, một người em ruột của mình, đang tỏ rõ thái độ. Người em không hề là kẻ đầu hàng, cần sự quỵ lụy người thân thế để nương nhờ, nên Quyền bẻ ngang câu chuyện. Anh ta hỏi về người em ruột khác, tức là anh ruột người cụt chân – kẻ đang chống nạng không chịu ngồi thân mật trò chuyện – với một giọng hách dịch:

- Vậy chú Tần đang ở đâu? Chạy sang Mỹ chắc?

- Chạy đi đâu? Chiến đấu tới phút cuối cùng ở phòng tuyến Xuân Lộc. Bây giờ đang trong trại tù của các anh.

Bá Quyền rao giảng:

-Trung tá ngụy thì phải trình diện học tập chớ. Mà tội lỗi các chú nhiều lắm. Các em trai của tôi hồi nhỏ đứa nào trong cùng một nhà với tôi đều hiền từ, sau này các chú lại đi theo giặc, trở nên tội lỗi với nhân dân. À, mà chú cũng đại úy ngụy hà? Nghe chú làm quận trưởng?

Người cụt chân không trả lời. Ông chống nạng bước ra hàng hiên, rít một hơi thuốc. Gót chân nạng không được bọc cao su. Tiếng gỗ lịch kịch trên sàn nhà. Một dội vang đều đều, âm vang của kỳ ngộ giữa hoạn nạn với máu xương một đời người. Ông nghe chỗ vết thương cũ, trận chiến đã trôi qua nhiều năm, nay tuy lành lặn nhưng vẫn nhói đau. Đau xa xăm. Một nỗi đau có-nắng-có-đau, còn-mưa-còn-nhớ." (Nhạc Điệu Của Bầy Ong, truyện Anh em cùng một mẹ, 92-94)

.

 

blank

Hình trái: CTB và Lê Giang Trần. Hình phải: CTB và Nguyễn Thanh Huy.

 

.

Trong tuyển tập Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, nơi đây xin trích đoạn câu hỏi cuối của Lý Đợi và câu trả lời của Cung Tích Biền:
 

"Lý Đợi: Trước khi đi uống rượu, qua bài phỏng vấn này, ông có muốn thỉnh cầu một điều gì không?

Cung Tích Biền: Nhân đây tôi có một thỉnh cầu (không phải kêu xin, vì nếu làm đơn xin thì 30 năm nay tôi đã làm rồi) với Nhà nước CHXHCN Việt Nam như sau:

CHỈ GIÙM TÔI NƠI CHÔN CẤT HAI NGƯỜI ANH RUỘT CỦA TÔI.

Người thứ nhất: ông Trần Ngọc Biền, vào bộ đội năm 1952, chết năm 1969, tại vùng núi Nghĩa Đàn, Nghệ An. Anh có nhiều huy chương và bằng khen thưởng, có cả chữ ký của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp...

Người thứ hai: ông Trần Ngọc Tấn, sĩ quan cấp tá quân lực VNCH. Có đi trình diện sau tháng Tư 1975, đi học tập và chết trong trại cải tạo. Gia đình chỉ được thông báo cái chết từ năm 1978 mà không biết nơi chôn cất.

Tôi, Trần Ngọc Thao, năm nay 2007 cũng đã ở tuổi cổ lai hy, nếu được quy kết mộ 2 ông anh ruột cũng là một thoả lòng. Nhà nước giúp tôi việc này cũng là phù hợp với Đạo lý Việt Nam." (Đành Lòng Sống Trong Phòng Đợi Của Lịch Sử, trang 99-100)

.

blank

Hình trái: Trịnh Thanh Thủy phỏng vấn Đặng Thơ Thơ. Hình phải, từ trái: Phạm Phú Minh, Bùi Vĩnh Phúc, Trịnh Y Thư.

 

 .

Có thể nói ngắn gọn rằng, trong khi viết văn, Cung Tích Biền đã cùng lúc ghi lại cả những phần đau đớn một thời trong dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều người chúng ta chỉ còn trong ký ức thời đi học về huyền thoại một mẹ trăm con như là cổ tích rất xa. Nhưng Cung Tích Biền đã nhìn thấy như hình ảnh tiên báo, không phải như một huyền thoại nghìn năm trước, nhưng đó là chuyện rất gần, rất thực. Trong truyện, đó là những người mẹ cổ tích nhìn con chia ly trong đời thường, những người mẹ có đàn con – không chỉ chứng kiến các con chia lối đi hai bờ núi/biển nhưng mẹ đã kinh hoàng, đã đau đớn khi thấy các con săn lùng bắn giết nhau. Để rồi rất nhiều người con đã chết bờ, chết bụi ở cả hai miền trong cuộc chiến và sau cuộc chiến. Nơi đây, trang giấy Cung Tích Biền đang vọng lại âm vang tiếng khóc sụt sùi của những người mẹ trăm con hai miền.

Độc giả quan tâm có thể đặt mua ở email: [email protected]

.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mẹ tôi, sinh nhật nào cũng bốn cây bạch lạp thắp sáng, năm nào bà cũng bốn mươi tuổi, không già hơn. Sinh nhật năm nay cũng vậy. Đàn cháu hát hăm hở Happy Birthday mừng bà nội. Mừng điều gì, tôi không biết. Sống lâu? Bà gần như không bao giờ chết. Xinh đẹp? Bà có bao giờ thay đổi đâu. Khỏe mạnh? Bà sẽ không bao giờ bệnh. Có lẽ con gái tôi biết được điều gì tôi không biết. “Chúc bà nội năm nay có tình yêu.” Cả đám con cháu cười vang kèm theo tiếng vỗ tay. Mẹ cười âu yếm. Trong căn phòng khách này, tôi là người già nhất và là người lạc hậu nhất.
LTS: Nhà văn Dương Nghiễm Mậu qua đời lúc 21 giờ 35 phút tối, giờ VN, ngày 2 tháng 8 năm 2016 (nhằm ngày 30 tháng 6 năm Bính Thân) tại Sài Gòn, hưởng thọ 81 tuổi. Dương Nghiễm Mậu tên thật là Phí Ích Nghiễm, sinh ngày 19 tháng 11 năm 1936 tại quê nội làng Mậu Hòa (quê ngoại làng Dương Liễu), huyện Đan Phượng, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Lập gia đình năm 1971, với Hồ Thị Ngọc Trang, giảng viên Anh ngữ. Sau 30/4/1975 bị bắt giam. 1977 đươc tạm tha. Từ 1977, học nghề sơn mài và sống bằng nghề này tại Sài Gòn. Từ 12 đến 18 tuổi sống ở Hà Nội. Học tiểu học ở trường Hàng Than, trung học, Chu Văn An, viết đoản văn, tùy bút cho báo trường và các báo có phụ trang văn nghệ học sinh. 1954 di cư vào Nam với gia đình, năm đầu ở Huế, năm sau ra Nha Trang, hè 1957 vào sống hẳn Sài Gòn. Từ 1957 trở đi Ông viết nhiều: tạp văn, tùy bút, đoản văn, truyện ngắn, truyện dài. Nhân ngày giỗ thứ tám, Việt Báo xin trích đăng lại nhà văn Dương Nghiễm Mậu từ tập “Tự Truyện Nguyễn Du”.
Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi. Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời...
Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, Kafka đã viết hàng trăm bức thư, từ những bức thư tình cảm động và đầy đau thương, cho đến những lá thư gửi cho bạn bè để chia sẻ về những tác động diệu kỳ của chữ nghĩa đối với tâm hồn. Tuy nhiên, không có bức thư nào có thể so sánh với bức thư dài 47 trang mà ông viết cho cha mình, Hermann Kafka, vào tháng 11/1919. Bức thư này gần như là tự truyện duy nhất của Franz Kafka, được dịch bởi Ernst Kaiser và Eithne Wilkins và được xuất bản vào năm 1966 với tựa đề “Letter to His Father” (Thư Gửi Cha).
Nó đứng như tượng biết cử động suốt ngày đêm. Tôi chưa biết phải làm gì với nó, nhưng tò mò muốn theo dõi. Mang thức ăn và nước uống mới đến mỗi buổi chiều. Tuy bốn chân bị dính cứng trong keo, nhưng mỗi khi tôi đến gần, ngày hôm trước, mắt nó tỏ vẻ giận dữ, cử chỉ hành hung như con vật trong màn múa rối; ngày hôm sau mắt tỏ vẻ nghĩ ngợi, cử động phòng thủ nhiều hơn hăm dọa; ngày thứ ba mắt nhìn thấy buồn bã và cầu khẩn, thoi thóp. Nó chết ngày thứ tư. Thân hình phục xuống trên bốn chân. Đầu gục về phía trước dính vào keo. Mắt nhắm hơn một nửa, hí nhìn không còn cảm giác.
Ngưởì Việt di tản tỵ nạn khi qua đây mới học được tiếng Anh. Cho dù, cuối cùng tốt nghiệp được đại học nhưng có lẽ cũng không thể nào biết tới hết 118 chữ đồng nghĩa với Death trong tự điển Thesaurus được. Ngay người Mỹ bản xứ cũng thế, nói chi đến các chữ khác.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Con người của toán học và kỹ thuật nhưng tâm hồn lại dành cho văn chương. Chính văn chương đã nâng anh dậy thành một nhà văn xứng với cái tên Trần Quí Sách tiền định. Từ năm 1964, anh đã có truyện và thơ trên Bách Khoa, Văn, Văn Học, Đời, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành và Ý Thức. Năm 2004, anh về hưu và dành tất cả thời gian cho văn học Việt Nam với Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo. Anh đã biến căn nhà ở Plainfield, New Jersey, thành nhà in gồm toàn máy móc cũ mua rẻ trên e-Bay để “chế tạo” những cuốn sách từ A đến Z.
Có lẽ từ khi xem cuốn phim Casablanca, một cuốn phim khá xưa, tôi có ý thích đi Morocco. Phim kể về một chuyện tình trong bối cảnh đệ nhị thế chiến. Humphrey Bogart và Ingrid Bergman thủ vai chính. Lúc đó, nhiều nơi trên đất Pháp đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Rất nhiều người chạy trốn Hitler bằng những con đường gian truân. Đi từ Paris, đến Marseilles, đến Lisbon, thoát qua Morocco. Để từ quốc gia ở bắc Phi lo giấy tờ trốn qua Hoa Kỳ. Hình ảnh Ingrid Bergman trong vai Ilsa cúi xuống nói với người nhạc công: “Sam, play it once, play “As Time Goes By”, đã đọng lại thật lâu trong trí nhớ tôi. Vì những lý do ngẫu nhiên, mà chuyến công tác sang Morocco cứ bị dời mãi. Hoạch định từ đầu năm, mãi đến tháng Sáu mới lên lịch được. Tôi nói với thượng cấp của tôi, sẽ lấy một tuần nghỉ phép sau khi đi làm ở Morocco. Lúc đó con tôi cũng được nghỉ lễ hai tuần, rất tiện. Chúng tôi sẽ về nhà Ba Mạ tôi.
Gửi BS Trần Quí Thoại, như một nén nhang tưởng nhớ người lính, nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư. Thác là thể phách, còn là tinh anh. (Nguyễn Du) Những tấm hình chụp nhà văn Trần Hoài Thư trên giường bệnh là của BS Trần Quí Thoại, con trai Trần Hoài Thư gửi cho BS Ngô Thế Vinh với ghi chú: “để Bác Vinh viết về những ngày cuối cùng của Ba con.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.