Truyện dịch
John Steinbeck sinh tại Salinas, California năm 1902 - một thành phố cách xa bờ biển Thái Bình Dương vài dặm, gần Thung Lũng Salinas màu mỡ và cách San Jose khỏang 70 dặm Anh. Nơi đây đã được dùng làm bối cảnh cho nhiều tiểu thuyết của ông. John Steinbeck học sinh vật học dưới biển tại Đại Học Stanford nhưng ông phải bỏ dở và không đậu đạt gì cả. Sau khi phải làm một lọat những công việc nặng nhọc, ông bắt đầu viết văn. Ông thất bại khi thử hành nghề như một nhà báo tự do tại New York, ông quay trở lại California và tiếp tục viết văn trong một căn nhà lẻ loi. Sự thành công chỉ đến với ông vào năm 1935 với cuốn Tortilla Flat. Triển vọng tốt đẹp của cuốn sách đó được tiếp tục xác nhận bởi những tác phẩm kế đó như In Dublin Battle, Of Mice and Men và nhất là The Grapes of Wrath - một cuốn tiểu thuyết có uy thế tới nỗi nó vẫn còn là một nguyên mẫu của nền văn chương Hoa Kỳ. Luôn luôn lấy California làm bối cảnh, những tác phẩm sau đó của John Steinbeck bao gồm Cannery Row, The Wayward Bus, East of Eden, The Short Reign of Pippin IV và Travel With Charlie.
Ông mất năm 1968 sau khi đọat Giải Thưởng Văn Chương Nobel vào năm 1962. Khi thông báo giải thưởng, Hàn Lâm Viện Thụy Điển đã tuyên bố: “Ông không có ý định làm một người vô tội để mua vui cho người khác. Thay vào đó, các đề tài mà ông chọn lựa đều có tính cáo giác - chẳng hạn như những khổ đau đánh vào những nông trang trồng bông và trồng trái cây ở California. Nguồn văn chương của ông vững vàng từng bước từng bước đạt tới sự thúc đẩy. Tác phẩm lớn Of Mice and Men ra đời, theo sau là những truyện ngắn có một không hai mà ông tập hợp lại trong cuốn The Long Valley. Con đường giờ đây đã mở ra cho tác phẩm lớn…thiên anh hùng ca biên niên sử The Grapes of Wrath.” (Tài liệu trên Internet)
John Steinbeck trước đây có đến thăm miền Nam Việt Nam. Theo lời nhà thơ Cung Trầm Tưởng, trong dịp ông viếng thăm Việt Nam, một số nhà văn, nhà thơ đã mời ông đi ăn thịt chó. Ông đã khóc khi bỏ miếng thịt chó vào miệng nhai để chứng tỏ ông hòa mình với phong tục tập quán xứ người. Còn nhà văn Võ Phiến sau khi nhận được bản dịch Of Mice and Men do dịch giả gửi tặng đã hồi ức lại kỷ niện gặp gỡ với John Steinbeck như sau, “Quận Cam Tháng 6, 2004. Thưa bác Đào Văn Bình: John Steinbeck có nhiều duyên nợ với Việt Nam! Chuyện ông qua Sài Gòn, chuyện ông ăn thịt chó v.v…đã thích thú. Lại có chuyện con trai ông từng tu với Ông Đạo Dừa! Anh em cầm bút cỡ tuổi tôi chắc còn nhớ cả những sách của ông ta mình từng đọc, cuộc tiếp xúc với ông ở Sài Gòn v.v.. Riêng tôi lại còn một kỷ niệm là vụ cãi cọ với Tú Rua năm nọ về Chuột và Người. Mọi chuyện rồi cũng qua đi, theo thời gian. Nay được bác cho sách, bồi hồi nhớ lại bao việc cũ. Xin chân thành thâm tạ món quà văn chương của bác. Võ Phiến. “
Còn nhà văn Doãn Quốc Sỹ sau khi nhận được bản dịch Of Mice and Men do dịch giả gửi tặng cũng đã khuyến khích như sau, “Nên in bản dịch này ra thành sách để phổ biến cho nhiều người đọc”.
Không biết tác phẩm Of Mice and Men trước đây đã được dịch sang tiếng Việt chưa? Song bản dịch này có một nét đặc biệt. Tôi đã mua cuốn sách này lúc còn ở trại tù Hà Tây, do anh em lén lút đưa vào với giá 8 đồng (đủ để mua một kilô thịt heo) rồi đọc và nghiền ngẫm. Khi ra khỏi tù, tôi tiếp tục đọc và khi vượt biển tôi bắt đầu dịch sang tiếng Việt. Mãi tới năm 1999 bản dịch này mới được đăng từng kỳ trên Tuần Báo Văn Nghệ Tiền Phong.
Thông thường, mỗi bản dịch đều mang một văn phong khác nhau. Ở Nhật Bản, vì số lượng độc giả quá đông đảo cho nên đôi khi có cả chục bản dịch khi một tác phẩm hay được giới thiệu vào trong nước. Điều này cũng dễ hiểu vì độc giả, có khi thích lối dịch của người này mà không thích lối dịch của người khác. Chỉ có một bản dịch duy nhất cho một tác phẩm lớn du nhập vào trong nước là dấu hiệu nghèo nàn của sinh họat văn chương.
Dầu sao việc chuyển ngữ một tác phẩm viết bằng tiếng người sang tiếng mẹ đẻ – nhất là tác phẩm lớn như Of Mice and Men mà các nhân vật trong truyện dùng rất nhiều tiếng lóng và lọai ngôn ngữ bình dân thô lỗ, rất khó hiểu đối với người không sinh đẻ tại Hoa Kỳ – chắc chắn không tránh khỏi sơ sót. Tôi sẵn sàng đón nhận mọi lời chỉ giáo để sau này nếu tác phẩm được in sẽ là một bản dịch hoàn hảo để phục vụ quý độc giả Việt Nam không có thì giờ đọc nguyên tác mà cũng có thể thưởng thức một tác phẩm lớn của nền văn chương Hoa Kỳ mà uy thế của nó vẫn còn vang vọng tới ngày nay. Thế nhưng tác phẩm này hiện không còn được giảng dạy tại các trường trung học Mỹ vì người Da Đen khiếu nại nó mang tính kỳ thị chủng tộc.
Xin lưu ý, bản dịch muốn in thành sách hoặc đăng từng kỳ trên các nhật báo, tuần báo, nguyệt san, hoặc đọc trên các chương trình phát thanh thì phải có sự đồng ý (bằng thư) của tác giả. Quý vị có thể liên lạc với dịch giả qua địa chỉ điện thư: [email protected]
Trân trọng,
Đào Văn Bình
California ngày 1/4/ 2023
***
Chương Một
Một vài dặm về phía nam Soledad dòng Salinas tạt vào phía sườn đồi, nước sâu và xanh biếc. Dòng sông ấm áp vì nó đã lấp lánh trườn mình trên giải cát vàng chói chan ánh mặt trời trước khi đổ vào hồ nước hẹp. Trên một bờ của dòng sông, những ngọn đồi vàng uốn lượn theo rặng núi đá Gabilan hùng vĩ, nhưng còn về phía bờ thung lũng, dòng sông chảy sóng đôi với những rặng liễu xanh tươi mà cứ mỗi độ xuân về trên những cuống lá ở dưới thấp vẫn còn mang theo những rác rưởi của trận lụt mùa đông; và những cây sung dâu thân trắng nổi vân nổi sọc nằm ngả ngớn, cành lá la đà trên mặt hồ. Trên bờ cát dưới những rặng cây, lá khô ròn và nằm xếp lớp tới nỗi những con rắn mối chạy sột sọat trong đó. Vào buổi chiều những con thỏ chui ra khỏi bụi rậm ngồi trên cát; những khu đất bằng phẳng, ẩm ướt phủ đầy những dấu chân của lòai chồn đi ăn đêm, những vết chân của những con chó đến từ các nông trại, và dấu móng chẻ của những con nai ra uống nước trong đêm tối.
Một con đường mòn xuyên qua những rặng liễu và giữa đám cây sung dâu; con đường được dậm cứng bởi bọn trẻ từ các nông trại tới đây tắm; và cũng được dậm cứng bởi bọn du thủ du thực vào mỗi buổi chiều mệt mỏi từ hướng xa lộ xuống đây tụ tập bên cạnh hồ nước. Phía trước cây sung dâu khổng lồ nằm ngả sát mặt đất là một đống tro tích tụ từ bao lần đốt lửa, thân cây nhẵn bóng vì người ta đã ngồi trên đó.
Buổi chiều của một ngày nóng nực đến với một cơn gió nhẹ lay động trong đám cành lá. Nắng chiều bò dần lên đồi về phía đỉnh những ngọn núi. Trên bờ cát, những con thỏ ngồi im lặng như những pho tượng đá nhỏ xám ngắt. Và rồi từ hướng xa lộ có tiếng chân người bước sột soạt trên đám lá cây sung dâu khô ròn. Bầy thỏ vội vã, im lặng lẩn trốn. Một con diệc khẳng khiu nặng nề cất mình lên không rồi bổ nhào xuống nước. Cảnh vật im lìm trong giây lát và rồi hai người nhô ra từ phía con đường, bước tới khu đất trống bên cạnh hồ nước trong xanh.
Hai người đi theo hàng một xuống con đường mòn và thậm chí tới khu đất trống người nọ cũng đứng sau người kia. Cả hai mặc quần và áo khóac bằng vải chéo go có đính những chiếc nút đồng. Họ đội mũ đen méo mó và cả hai đều mang những chiếc mền cuốn tròn khóac ngang vai. Người đi đầu nhỏ con, nhanh nhẹn, da xạm, đôi mắt nóng nảy tinh khôn, dáng khỏe mạnh. Mọi bộ phận trên thân thể hắn đều lộ rõ vẻ nhỏ bé, bàn tay rắn rỏi, cánh tay mảnh khảnh, mũi gầy và xương xẩu. Đi sau hắn lại là một người hòan tòan trái hẳn, thân hình khổng lồ, mặt méo mó, cặp mắt to và xanh xao, vai xuôi rộng, hắn bước đi nặng nề và hơi kéo lê một chút tựa như con gấu đi vậy. Tay của hắn không đong đưa lúc bước đi mà lại buông thõng xuống.
Người đi đầu chợt dừng lại nơi khỏang đất trống khiến gã đi sau muốn đè lên hắn. Hắn bỏ mũ rồi lấy ngón tay trỏ chùi vệt mồ hôi rồi lấy tay búng đi. Anh bạn khổng lồ của hắn bỏ mền xuống rồi lao mình xuống uống nước ở trên mặt hồ; gã uống từng ngụm dài, uống sùm sụp như con ngựa uống nước. Gã nhỏ con bực bội bước tới bên cạnh.
“Lennie!” hắn gắt “Lennie, trời ơi đừng uống nhiều thế.” Lennie vẫn tiếp tục uống sùm sụp trong hồ nước. Gã nhỏ con cúi xuống rồi lắc vai hắn. “Lennie, mày sẽ ốm như hôm qua đó.”
Lennie nhúng cả đầu, mũ và tất cả xuống nước rồi nó ngồi ngay ngắn lại trên bờ, nước từ chiếc mũ nhỏ xuống chiếc áo màu xanh rồi chảy xuống vai nó.
“Thế mới đã, “ nó nói, “Anh uống thử xem George. Uống ngụm lớn đó.” Nó mỉm cười sung sướng. George tháo chiếc bọc rồi từ từ đặt xuống bờ, gã nói, “ Không chắc là nước uống được, rác rưởi kia kìa.”
Lennie thọc chiếc chân khổng lồ của nó xuống nước rồi ngọ nguậy mấy ngón tay khiến cho nước khẽ bắn tung lên; những vòng tròn loang rộng trên hồ nước, qua tới bờ bên kia rồi quay trở lại. Lennie nhìn theo chúng. “Nè George. Nhìn tui làm nè.”
George quỳ xuống bên cạnh hồ, hắn dùng tay vốc nước bằng những cái vốc thật nhanh, gã thú nhận. “ Nước này uống được đấy nhưng không chắc đã là nước chảy. Mày không được uống nếu đó không phải là nước chảy.” Gã chán nản nói, “Mày có thể uống ở một cái máng nếu mày khát.” Hắn ném một vốc nước vào mặt lấy tay xoa mặt, dưới cằm rồi sau gáy. Hắn sửa lại mũ, thu mình trở lại, ngồi bó gối. Lennie nãy giờ ngắm nghía, bắt chước y hệt George. Nó cũng thu mình, co chân ngồi ôm gối nhìn qua phía George xem nó có làm đúng như vậy không. Nó kéo cái mũ của nó thấp xuống đôi mắt một chút theo cái kiểu đội mũ của George.
George rầu rĩ nhìn trừng trừng xuống dòng nước. Mí mắt hắn rực đỏ vì ánh mặt trời. Hắn tức giận nói, “Đáng lý bọn mình đã tới ngay trại nếu thằng chó đẻ tài xế đó nó hiểu nó nói gì. Dưới xa lộ một chút xíu ‘dưới xa lộ một chút xíu.’ Mẹ kiếp gần bốn dặm, đúng như vậy đó. Nó không muốn tốp ở gần cổng nông trại. Mẹ nó! Làm biếng quá nên nó dừng lại. Nó chẳng tốt lành gì khi dừng lại ở Soledad, đá bọn mình xuống rồi nói ‘dưới xa lộ một chút xíu’. Tao cá phải hơn bốn dặm. Mẹ kiếp! Trời đất gì mà nóng dữ quá.” Lennie rụt rè nhìn hắn:
“Nè George.”
“Ừa, mày muốn gì?”
“Mình đi đâu George?”
Gã nhỏ con giựt cái vành mũ rồi quắc mắt nhìn Lennie:
“Thế là mày lại quên hả? Tao lại phải nhắc mày có phải không? Trời đất ơi, mày là thằng điên lạc loài.”
“Tui quên,” Lennie nhỏ nhẹ nói. “Tui cố không quên, thiệt mà George.”
“Được. Được.Tao sẽ nói lại cho mày để rồi tao sẽ không nói nữa. Chẳng lẽ tao cứ mất thì giờ nhắc, rồi mày lại quên rồi phải nói lại cho mày nghe.”
“Tui cố, tui cố,” Lennie nói. “Nhưng tui làm không được. Tui nhớ tới mấy con thỏ George à.”
“Mẹ kiếp chứ mấy con thỏ. Cái làm mày nhớ mãi không thôi là mấy con thỏ. Thôi được! Giờ mày nghe đây và không được quên để bọn mình khỏi phải gặp rắc rối. Mày còn nhớ bọn mình bắt đầu từ khu bùn lầy nước đọng ở đường Howard và đứng nhìn tấm bảng không?”
Mặt Lennie bừng lên một nụ cười sung sướng. “Sao không George? Tui nhớ là… nhưng… sau đó bọn mình làm gì nhỉ? Tui nhớ có vài đứa con gái đi ngang rồi anh nói…anh nói…”
“Mẹ kiếp chứ tao nói. Mày có nhớ bọn mình tới hãng Murray and Ready’s và họ cho mình thẻ làm việc và vé xe búyt hay không?”
“Ồ, đúng rồi George; tui nhớ rồi.” Nó vội vàng thọc tay vào túi chiếc áo khóac. Nó nhỏ nhẹ nói, “George, tui không có cái của tui; tui làm mất nó rồi.” Lennie thất vọng cúi nhìn xuống đất.
“Thằng điên lạc loài, mày chẳng bao giờ có cái gì cả. Tao giữ cả đây nè. Mày thử nghĩ xem chẳng lẽ tao để mày giữ tấm thẻ đó?”
Lennie nhe răng cười nhẹ nhõm. “Tui… tui tưởng tui để nó trong túi áo.” Nó thọc tay vào túi áo một lần nữa.
George soi mói nhìn nó. “Mày định lấy ra cái gì đó?”
“Đâu có gì trong túi tui,” Lennie khéo léo đáp.
“Tao biết không có gì trong túi. May nắm trong tay đó. Mày giữ trong tay cái gì đó… định giấu hả?”
“Có gì đâu George, thiệt mà.”
“Nè, đưa nó đây.”
Lennie đưa bàn tay nắm chặt của nó tránh xa phía George.
“Chỉ có con chuột nhắt thôi George.”
“Con chuột! Con chuột còn sống hả?”
“Ối! Ối! Con chuột chết George à. Tui không giết nó. Thiệt mà! Tui thấy nó. Tui thấy nó chết rồi.”
“Đưa đây cho tao!” George nói.
“Ối, để tôi giữ nó Geoge.”
“Đưa ngay cho tao!”
Bàn tay nắm chặt của Lennie từ từ vâng lời. George nắm lấy con chuột ném tuốt qua phía bờ hồ bên kia, vào đám bụi rậm. “Tao không hiểu mày làm gì với con chuột đó?”
“Tui lấy mấy ngón tay mân mê nó khi tụi mình cùng đi.” Lennie nói.
“Nè, mày không được mân mê mấy con chuột khi mày đi với tao. Mày có nhớ bọn mình đi đâu không?”
Lennie kinh hãi nhìn rồi nó bối rối gục mặt vào đầu gối.
“Tui lại quên rồi.”
“Trời đất ơi!” George cố nén, “Nè, bọn mình sẽ làm việc tại một nông trại giống như trại ở miền Bằc đó.”
“Ở miền Bắc hả?”
“Ở Weed đó.”
“Ồ đúng rồi. Tui nhớ. Ở Weed đó.”
“Cái trại bọn mình sắp làm ở dưới kia khoảng một phần tư dặm. Bọn mình sẽ tới đó gặp ông chủ. Nè, nghe này… tao sẽ đưa ông chủ thẻ làm việc, nhưng mày phải ngậm miệng. Mày chỉ đứng đó và không nói gì hết. Nếu hắn khám phá ra mày là tên vô loại điên khùng thì bọn mình không có việc làm, nhưng nếu hắn coi mày làm việc trước khi nghe mày nói thì mọi việc êm xuôi. Mày hiểu không?”
“Yên trí George. Yên trí tui hiểu.”
“Được. Vậy thì khi bọn mình gặp ông chủ, mày làm gì?”
“Tui… tui…” Lennie suy nghĩ. Mặt nó căng lên vì suy nghĩ. “Tui sẽ không nói gì hết. Chỉ đứng đó thôi.”
“Giỏi lắm. Mày cứ nói đi nói lại hai ba lần chắc chắn mày sẽ không quên.”
Lennie khẽ lẩm bẩm, “Tui sẽ không nói gì hết. Tui sẽ không nói gì hết… tui sẽ không nói gì hết.”
“Được,” George nói. “Và mày sẽ không được làm chuyện điên khùng giống như mày làm ở Weed vậy.”
Lennie bối rối nhìn. “Giống như tui làm ở Weed hả?”
“Ồ, mày lại quên rồi hả? Nè, tao chỉ nhắc mày sợ mày lại tái diễn một lần nữa.”
Một chút hiểu biết bừng lên trên khuôn mặt của Lennie.
“Họ đuổi chúng ta ra khỏi Weed,” nó phá lên cười đắc thắng.
“Mẹ kiếp chứ đuổi chúng ta ra khỏi Weed,” George nói một cách khinh tởm. “Bọn mình chạy trốn. Bọn họ đuổi theo nhưng không bắt được bọn mình.” Lennie sung sướng khúc khích cười. “Anh cá không, tui đâu có quên.”
George nằm ngửa trên cát, hai tay vắt chéo sau gáy, và Lennie cũng bắt chước theo, nó ngóc đầu dậy xem nó có làm đúng như vậy không. “Trời ơi, mày là nguyên do của bao nhiêu phiền phức.” George nói. “Tao có thể xoay sở dễ dàng và rất đẹp nếu không có mày tò tò đi theo đuôi tao. Tao có thể sống thỏai mái và có thể có cả gái nữa.”
Lennie nằm yên trong giây lát rồi nó nói với vẻ đầy hy vọng. “George, bọn mình sẽ làm việc ở một nông trại.”
“Phải. Mày sẽ làm việc ở đó. Nhưng bọn mình sẽ ngủ ở đây vì tao có một lý do.”
Một ngày giờ đã qua nhanh. Chỉ còn lại những đỉnh của ngọn núi Gabilan rực cháy với ánh mặt trời giờ đã biến mất khỏi thung lũng. Một con rắn nước lướt dọc theo bờ hồ ngóc đầu lên như cái kính tiềm vọng. Những cây sậy nhè nhẹ lắc lư giữa dòng nước. Xa xa về hướng xa lộ có tiếng hú của ai đó rồi tiếng hú đáp lại. Những cành lá cây sung dâu rì rào theo một cơn gió nhẹ chỉ thoáng.
“George à… sao bọn mình không đi tới trại và ăn cơm chiều ở trại. Họ có cơm chiều mà.”
George lăn mình qua một bên. “Chẳng có lý do gì cho mày ráo trọi. Tao thích ăn ở đây. Ngày mai bọn mình sẽ đi làm việc. Tao đã thấy cái máy gặt trên đường xuống đó. Nhớ là bọn mình sẽ phải rửa những bao đựng lúa mì. Tối nay tao sẽ nằm ở đây và nhìn lên trời. Tao thích thế. “
Lennie nhỏm dậy trên hai đầu gối, nó nhìn về phía George.
“Vậy bọn mình không ăn cơm chiều à?”
“Có chứ, nếu mày gom được mấy cành liễu khô. Tao có ba hộp đậu trong bọc đây. Tao sẽ đưa diêm quẹt cho mày khi nào mày gom củi đâu vào đó.
Lennie để đồ đạc bừa bãi dưới chân nó rồi nó biến mất vào đám bụi rậm. Nó đem về một cành liễu nhỏ. George ngồi dậy “Được,” hắn cọc cằn nói. “Đưa con chuột cho tao.”
Nhưng Lennie làm cái điệu bộ ngây thơ của người đóng kịch câm khéo léo. “Chuột nào George? Tui có con chuột nào đâu.”
Geoge chìa tay ra, “Nào. Đưa nó cho tao. Mày đừng có qua mặt tao.” Lennie ngần ngừ, thụt lui lại, nó tức giận nhìn về phía bụi rậm như thể muốn chạy trốn. George lạnh lùng nói.
“Mày đưa cho chuột hay tao phải đập mày?”
“Đưa anh cái gì George?”
“Mẹ kiếp mày biết rõ quá mà. Tao muốn con chuột đó.”
Lennie miễn cưỡng thọc tay vào túi áo. Giọng nó nghẹn ngào. “Tui không hiểu sao tui không thể giữ nó. Đâu phải chuột của ai. Tui đâu có ăn cắp. Tui nhìn thấy nó nằm ngay trên đường.”
Bàn tay của George vẫn vươn ra như thúc giục. Từ từ, tựa như con chó chăn cừu không muốn đưa trái banh cho chủ của nó, Lennie bước tới rồi thụt lui. George búng tay chóc một cái và lập tức Lennie đặt con chuột vào tay hắn.
“Tui đâu có làm chuyện gì xấu đâu George, tui chỉ mân mê nó thôi.”
George đứng dậy và ném con chuột tuốt qua bên kia đám bụi rậm tối thui, rồi hắn bước tới hồ rửa tay.
“Thằng điên khùng. Mày tưởng tao không thấy chân mày ướt khi mày lội qua sông để lượm con chuột à?” Hắn nghe tiếng Lennie khóc thút thít rồi quay sang tả xoay sang hữu.
“Trời đất ơi! Khóc bù lu bù loa như đứa con nít.”
Môi Lennie run run rồi nước mắt lăn trên má. “Nè Lennie!” George đặt tay lên vai Lennie. “Tao đâu quẳng con chuột đi một cách phi lý. Con chuột đó chết lâu rồi; ngoài ra mày mân mê nó nát bét ra rồi. Mày kiếm con chuột khác còn sống tao sẽ để mày giữ nó một thời gian.”
Lennie ngồi xuống đất, nó gục đầu não nề. “Tui không biết kiếm ở đâu ra con chuột khác. Tui nhớ có một bà, thường cho tui chuột… có con nào bả cũng cho tui. Nhưng giờ bả không có đây.”
George chế giễu. “Bà nào hả? Cả đến bà đó mà mày cũng đếch nhớ là ai nữa. Đó là bà cô Clara của mày đó. Bả đâu còn chuột cho mày nữa vì mày cứ làm chết nó hoài.”
Lennie rầu rĩ nhìn George. “Chúng nó nhỏ quá,“ nó nói như thể biện bạch. “Tui mân mê nó, rồi nó cắn vào tay tui rồi tui bấm nhẹ vào đầu nó rồi nó chết…vì nó nhỏ quá. Tui mong sao mình sớm có thỏ George ạ. Thỏ không nhỏ quá.”
“Mẹ kiếp chứ thỏ! Người ta cũng chẳng cho mày chuột sống nữa. Bà cô Clara cho mày một con chuột cao su nhưng mày đâu có chịu chơi với nó.”
“Mân mê chuột cao-su không thích George à.”
Ánh lửa hoàng hôn nhấc dần khỏi đỉnh những ngọn núi, bóng chiều tràn vào thung lũng và bóng tối chập choạng lấn dần vào mấy cây liễu và đám cây sung dâu. Một con cá chép lớn nhô lên khỏi mặt hồ đớp không khí rồi len lén lặn xuống để lại những vòng loang rộng trên mặt hồ. Trên đầu, đám cây sung dâu lại đong đưa và những lọn bông liễu rơi xuống đáp nhẹ trên mặt hồ.
“Mày có định đi lấy củi không?” George ra lệnh. “Ngay phía sau cây sung dâu đó có nhiều lắm. Củi do nước lụt đem lại đó. Giờ mày đi lấy ngay đi.”
Lennie bước ra phía sau cây sung dâu rồi nó ôm về một bó lá khô và cành cây. Nó ném thành một đống trên đống tro rồi trở lại lấy thêm nữa. Bây giờ trời đã tối lắm rồi. Một cánh bồ câu bay vút ngang mặt hồ. George bước tới đống củi rồi bật lửa đốt đám lá cây khô. Ngọn lửa nổ tí tách trong đám cành cây khô rồi bùng cháy. George tháo cái bị rồi đem ra ba hộp đậu. Hắn dựng ba hộp đậu gần sát vào lửa nhưng không cho ngọn lửa bám vào. “Đậu đủ bốn người ăn,” George nói.
Lennie ngắm nhìn George qua ngọn lửa. Nó cố nén nói.“Tui thích ăn đậu với sốt cà chua.”
“Mà bọn mình có đâu,” George nổi đóa. “Hễ cứ cái gì bọn mình không có thì mày đòi. Trời đất ơi, nếu không có mày tao có thể sống dễ dàng. Tao có thể có công ăn việc làm mà chẳng phiền phức gì ráo trọi. Chẳng rắc rối gì hết và vào cuối tháng tao có thể cầm 50 đô-la xuống phố để mua những gì tao muốn. Sao? Tao có thể ngồi trong ổ điếm suốt đêm. Có thể ăn ở bất cứ nơi nào tao muốn, khách sạn hay bất cứ nơi đâu và gọi bất cứ món ăn gì tao thích. Và mẹ nó, tháng chó nào tao cũng làm như vậy. Mua một galông whisky ngồi trong phòng giải trí để chơi bài và đánh bi-da.”
Lennie quỳ gối, qua ngọn lửa, nó quan sát sự tức giận trên khuôn mặt của George. Mặt nó căng lên vì khủng khiếp. “Và rồi tao được gì? “ George đùng đùng nói tiếp. “Tao được mày! Mày làm mất tất cả những công việc tao kiếm ra. Mày kéo tao đi hết nơi này tới nơi nọ không thôi. Nhưng nào đã hết. Mày còn gây rắc rối. Mày toàn làm những chuyện điên khùng để tao phải kéo mày ra.”
Giọng nói của hắn bật lên như tiếng thét. “Thằng chó đẻ điên khùng. Mày luôn luôn làm tao nóng giận.” Hắn bắt chước bộ điệu của của những đứa con gái khi chúng bắt chước nhau. “Chỉ muốn mân mê cái tà áo của con bé ấy thôi… mân mê như mân mê con chuột vậy… Nè, làm sao nó biết được là mày chỉ thích mân mê cái áo của nó thôi. Nó giật ra nhưng mày cứ nắm cứng như nắm con chuột. Nó tru tréo lên và bọn mình phải trốn vào một con kinh đào suốt ngày trong khi bọn họ đi lùng kiếm rồi bọn mình phải lợi dụng lúc đêm tối để trốn khỏi nơi đó. Lúc nào cũng là những chuyện như thế. Lúc nào cũng vậy. Tao mong sao có thể nhốt mày vào một cái chuồng với cả triệu con chuột để mày tha hồ vui thú.”
Sự tức giận của hắn đột nhiên hạ xuống. Hắn nhìn khuôn mặt thiểu não của Lennie qua ánh lửa, và rồi hắn bẽn lẽn nhìn xuống đống lửa. Lúc này trời đã tối lắm nhưng ngọn lửa thắp sáng những thân cây và đám cành lá trên đầu. Lennie chầm chậm, cẩn thận bò quanh đống lửa cho đến khí nó gần George. Nó ngồi xổm. George xoay mấy hộp đậu để mặt hộp bên kia tiếp giáp với ngọn lửa. Hắn làm bộ như không biết có Lennie đến gần.
“George à,” rất nhỏ. Không có ai trả lời “George.”
“Mày muốn gì?”
“Tui thật điên khùng George à. Tui không muốn ăn sốt cà chua nữa đâu. Tui không ăn sốt cà chua nữa cho dù nó có ngay bây giờ.”
“Nếu có bây giờ thì mày có quyền ăn chứ.”
“Nhưng tui không muốn ăn George ạ. Tui sẽ để hết cho anh. Anh có thể ăn đậu với sốt cà chua còn tui không ăn gì hết.”
George vẫn còn buồn bực nhìn trừng trừng vào đống lửa.
“Nghĩ đến cái lúc tao có thể thóat khỏi tay mày tao sung sướng biết là bao. Tao chẳng bao giờ được yên ổn cả. “
Lennie vẫn còn quỳ gối. Nó nhìn ra phía bóng tối ở bên kia sông.
“George à, anh muốn tui bỏ đi để anh sống môt mình hả?”
“Mẹ kiếp mày đi đâu?”
“À, tui có thể đi tuốt vào những rặng núi kia. Tui có thể kiếm một cái hang.”
“Vậy hả? Mày ăn làm sao? Mày đâu có đủ khôn ngoan để kiếm món ăn?”
“Tui có thể tìm được George à. Tui đâu cần đồ ăn ngon với sốt cà chua. Tui có thể nằm phè dưới ánh nắng mà chẳng có ai xâm phạm đến tui. Nếu tui kiếm được con chuột nào, tui có quyền giữ nó. Không ai có thể lấy đi của tui.”
George liếc vội và dò xét Lennie. “Tao độc ác lắm phải không?”
“Nếu anh không cần tui nữa, tui có thể đi tuốt vào dãy núi kia để kiếm một cái hang.”
“Không… coi này! Tao chỉ đùa thôi Lennie. Vì tao muốn mày ở với tao, song có điều phiền phức là hay giết những con chuột.” Hắn ngừng lại, “Tao sẽ nói cho mày hay tao sẽ làm gì. Trước hết tao sẽ kiếm cho mày một con chó con. Có thể mày không giết nó. Chó con tốt hơn chuột và mày có thể mân mê nó mạnh hơn.”
George tránh cái mồi nhử của George. Nó cảm thấy nó thắng thế.
“Nếu anh không cần tui thì anh cứ nói ra, tui sẽ bỏ đi vào dãy núi kia… vào ngay dãy núi đó để sống một mình. Tui không muốn ai lấy đi của tui những con chuột.”
George nói, “Tao muốn mày ở với tao. Trời ơi Lennie, người ta sẽ bắn mày như bắn một con sói hoang nếu mày sống một mình. Không, mày ở với tao. Bà cô Clara của mày đâu muốn mày ra đi một mình, nếu không bà ấy sẽ chết mất.
Lennie khéo léo nói, “Kể cho tui nghe… giống như anh kể trước đây đi.”
“Kể cho mày cái gì?”
“Mấy con thỏ đó.”
George búng tay, “Mày không được qua mặt tao.”
Lennie năn nỉ, “Nào, George, làm ơn kể tui nghe đi. Giống như anh kể trước đây đó.”
“Mày thích lắm hả? Được, tao sẽ kể cho mày nghe rồi bọn mình ăn cơm chiều…”
Giọng của George trở nên trầm lắng. Hắn nhịp nhàng kể từng lời từng chữ như thể hắn đã nói đi nói lại nhiều lần rồi.
“Như bọn mình đây là bọn làm thuê cho các nông trại, là hạng người cô đơn nhất trên cõi đời này. Bọn họ không có gia đình. Chẳng lệ thuộc vào nơi nao. Họ tới làm việc tại một nông trại để kiếm một ít tiền rồi ra tỉnh đốt cháy hết và rồi việc đầu tiên mày biết đó là họ lại lê gót tới các nông trại khác. Họ chẳng có gì để mà theo đuổi cả.”
Lennie sung sướng. “ Đúng vậy… đúng vậy. Giờ bọn mình thì sao?”
George tiếp tục kể. “Với bọn mình thì có khác. Bọn mình có một tương lai. Bọn mình mong mọi người đừng để ý chi đến bọn mình. Bọn mình đâu phải hạng người ngồi trong quán rượu để đốt cháy hết tiền bạc bởi lý do không biết đi đến một nơi nào khác nữa. Nếu như bọn khác phải vào tù thì chúng nó sẽ rạc gáo. Nhưng bọn mình thì có khác.”
Lennie ngắt lời. “Nhưng bọn mình thì có khác! Bởi vì sao? Bởi vì có anh lo cho tui và có tui lo cho anh.” Nó cười sung sướng. “Nói nữa đi George.”
“Mày thuộc lòng mà. Mày có thể kể được mà.”
“Không, anh kia.Tui không nhớ hết. Kể xem rồi bọn mình ra sao đi.”
“Được, Một ngày kia… bọn mình sẽ chung tiền lại, bọn mình sẽ có một căn nhà nhỏ và một đôi ba mẫu ruộng, một con bò cái và một ít lợn và…”
“Sẽ được ăn sung mặc sướng,” Lennie la lên. “Rồi sẽ có thỏ. Nói tiếp đi George! Nói xem bọn mình sẽ có gì trong vườn rồi về những con thỏ nuôi trong chuồng, những trận mưa về mùa đông rồi lò sưởi và những tảng kem dày cộm mà anh ăn không nổi. Nói đi George.”
“Sao mày không kể đi? Mày biết hết cả mà.”
“Không… anh kể. Tui kể không giống như vậy. Kể đi George. Tui phải chăm sóc mấy con thỏ như thế nào?”
“À,” George nói, “Bọn mình sẽ có một vườn rau lớn, một chòi nuôi thỏ và gà. Và mỗi khi đông về trời mưa. Mẹ kiếp bọn mình nói chi đến chuyện đi làm. Bọn mình sẽ đốt lửa trong lò sưởi rồi ngồi quanh đó lắng nghe tiếng mưa rơi trên mái ngói… đã lắm!” Hắn lấy ra một con dao díp. “Tao chẳng còn thì giờ nữa.” Hắn lách con dao qua cái nắp của hộp đậu, mở cái nắp hộp rồi đưa cho Lennie. Rồi hắn mở hộp đậu thứ hai. Hắn lấy trong túi áo bên cạnh ra hai cái muỗng rồi thảy một cái cho Lennie.
Họ ngồi ngay bên đống lửa nhai nhồm nhoàm, miệng đầy đậu. Một vài hạt đậu rớt ra từ mép của Lennie. George khoa chiếc muỗng lên. “Ngày mai ông chủ hỏi mày thì mày nói gì?”
Lennie ngừng nhai và nuốt vội. Mặt nó như cố tập trung.
“Tui… tui sẽ không… nói một lời.”
“Được lắm! Thằng này giỏi! Lennie! Rồi mày sẽ khá hơn. Khi nào bọn mình có vài mẫu ruộng tao sẽ để mày chăm sóc mấy con thỏ. Nếu như mày nhớ được như bây giờ.”
Lennie ngất ngây vì hãnh diện. “Tui nhớ được,” nó nói.
George lại quơ cái muỗng lần nữa.” Nè, Lennie. Tao muốn mày dòm quanh đây. Mày có thể nhớ được chỗ này không? Nông trại chỉ trên lối này ¼ dặm. Theo con sông này có phải không?”
“Đúng rồi,” Lennie nói. “Tui nhớ được.Anh không thấy tui đã nhớ không nói một lời sao?”
“Dĩ nhiên là mày nhớ rồi. Nè, coi này Lennie… nếu chẳng may mày gây rắc rối như mày vẫn làm trước đây, tao muốn mày đến đây và trốn ở trong bụi rậm.”
“Trốn vào trong bụi rậm,” Lennie chậm rãi nói.
“Trốn ở trong bụi rậm để chờ tao. Mày nhớ được không?”
“Yên trí tui nhớ George. Trốn ở trong bụi rậm để chờ anh đến.”
“Nhưng mày không được gây rắc rối nếu không tao sẽ không để mày chăm sóc mấy con thỏ.” Hắn ném cái hộp vào trong bụi rậm.
“Tui không muốn gây phiền phức George ạ. Tui sẽ không nói một lời.”
“Được. Đem cái bọc của mày để gần đóm lửa. Ngủ ở đây được lắm. Nhìn lên trời, cành lá. Đừng khêu ngọn lửa thêm nữa. Cứ để nó lụi dần.”
Họ nằm ngủ ngay trên cát và khi ngọn lửa rơi trên đống lửa, ánh sáng yếu dần, những cành cây cong biến đâu mất chỉ còn lại một tia sáng yếu ớt thắp sáng mấy thân cây. Từ trong bóng tối tiếng Lennie kêu, “George, anh ngủ hả?”
“Không, mày muốn gì?”
“Kiếm lọai thỏ đủ màu sắc nghe George.”
“Yên trí,” George nói giọng ngái ngủ, “ Thỏ đỏ, thỏ xanh, thỏ xanh lá cây. Cả triệu con lận.”
“Lọai có lông mượt nghe George. Giống như tui thấy ở hội chợ nghe.”
“Ừa, thứ lông mượt.”
“Nếu không thì tui thà bỏ đi và sống ở một cái hang.”
“Mày thà bỏ đi và sống ở cái con khỉ,” George nói. “ Câm mồm đi.”
Ngọn lửa đỏ lịm dần trên đống than. Từ phía ngọn đồi bên kia con sông tiếng sói tru lên rền rỉ rồi tiếng chó nhà đáp lại từ bên bờ con suối. Đám lá cây sung dâu thì thào theo một cơn gió nhẹ về đêm.
Nguyên tác của John Steinbeck
Bản dịch Việt Ngữ của Đào Văn Bình
Gửi ý kiến của bạn