Hôm nay,  

Dấu ấn văn hóa truyền thống trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm

20/05/202311:03:00(Xem: 3887)
Phê bình -- Nhận định Văn học

gs-nguyen-van-sam
GS Nguyễn Văn Sâm.


Nhắc đến GS Nguyễn Văn Sâm, người ta biết ông nhiều trong cương vị một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu di sản Hán-Nôm và văn học Nam Bộ hơn là nhà văn, nhà thơ. Điều này không phải do sáng tác của ông chưa chín, mà có lẽ chính sự đóng góp quá lớn của ông ở mảng khảo cứu, dịch thuật Hán-Nôm đã làm che khuất những tác phẩm văn chương giá trị của ông.
    Bên cạnh hàng chục công trình biên khảo, dịch thuật, chú giải chữ nghĩa Hán học trong các tác phẩm Nôm, GS Nguyễn Văn Sâm còn là tác giả của hàng trăm truyện ngắn, với nhiều chủ đề, nội dung, không gian văn hóa, thời gian văn hóa khác nhau. Và dù, các tác phẩm của ông có chủ đề, nội dung phong phú nhưng hầu như tất cả cùng chung một giọng văn đậm chất Nam Bộ. Đọc văn của Nguyễn Văn Sâm gợi chúng ta nhớ tới giọng văn của Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng… Và hơn thế nữa, ở đó là một tấm lòng thiết tha với văn hóa cổ truyền, với quê hương, với giống nòi. Như vậy, ngỡ sáng tác và nghiên cứu là hai mảng đối lập trong sự nghiệp văn học của GS Nguyễn Văn Sâm, song thiết nghĩ, cả hai mảng đều có sự liên kết thống nhất, quán thông tôn chỉ, mục đích. Tư tưởng của ông là bảo tồn vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
    Sài Gòn xưa qua những áng văn chương, báo chí thường được thể hiện qua hai mặt: một mặt hoa lệ, pha trộn nhiều nền văn hóa ở trung tâm và một mặt thuần túy văn hóa truyền thống Việt Nam, thường ở những vùng ngoại ô. Và với Nguyễn Văn Sâm, khi cảm thức về Sài Gòn xưa, ông thường chú ý nhiều ở mặt thuần túy tính cách văn hóa Việt Nam, như là một cách lưu giữ nét sinh hoạt truyền thống trong truyện ngắn của mình.
    Trong Biển trời lai láng, ông viết: “Điều dễ thương đối với tôi cũng bình thường thôi.  Thường là những căn nhà ở vùng Bà Chiểu, Thủ Đức, ba gian hai chái, vách bổ kho, mái ngói âm dương, cột danh mộc tròn lên nước bóng lưỡng dựng chững chạc trên từng tảng đá xanh vuông vức, trong nhà đối liễn vẫn còn treo trên những vị trí trang trọng. Hay một cái bàn “ông Thiên” giữa trời thường thấy ở vùng Giồng Ông Tố với hình ảnh người chủ gia đình, lúc vừa chụp tối, bận áo bà ba hai tay chấp nắm nhang xá xá bốn phương trời. Hoặc một cái gáo dừa gắn cán dài úp trên lu nước dựng ngoài mái hiên bắt gặp thường xuyên từ khoảng Cầu Hàn đổ ra đến nửa đường đi Nhà Bè hay từ phía Phú Lâm đổ lên Gò Đen. Có những hình ảnh nhỏ hơn và tầm thường hơn như tiếng võng đưa kẽo kẹt vào lúc giữa trưa trời đứng gió. Võng phải treo phía trên một cái giường tre khập khễnh mới đúng điệu, hòa hợp với cảnh trí xa xa là một bụi tre mà ngọn và tất cả lá đều đương đứng im lìm trầm ngâm ngó trời như thường thấy ở xóm Cầu Tre trước đây…” (Trích Biển trời lai láng).
    Qua cách tả khá chi tiết, với lời văn dung dị, dễ dàng cho người đọc hình dung đến một không gian sinh hoạt Sài Gòn ngoại ô xưa: một nét đẹp hài hòa cả về văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh thần.
    Xưa Xuân Diệu từng nói: “Ai đem phân chất một mùi hương”! Làn hương, tác phẩm văn chương không ai có thể phân tích tính chất và định lượng hay dở rạch ròi. Viết thế nào là hay, viết thế nào là dở, còn tùy thuộc vào “tầm đón đợi” của người đọc. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, đã là “văn chương từ tảo” thì nhất định phải đẹp, phải thơm, như làn hương mà Xuân Diệu nói, không ai có thể phân chất được, nhưng có thể lan tỏa khắp đến mọi người. Cái đẹp, cái hương thơm trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm mà chúng tôi muốn nói đến ở đây chính là nơi lưu giữ và giáo dục luân lý và đạo đức làm người. Có thể lấy tình yêu cao cả, bao dung của người từ mẫu trong truyện ngắn Chuyện mẹ nhân ái làm ví dụ. Chúng tôi xác tín rằng, chính tình mẹ thiêng liêng trong truyện ngắn này sẽ giúp làm thức tỉnh trái tim của biết bao người con mê lầm: “Ôi nghiệm ra rằng, má ta là Đức Bồ Tát của ta, là sự Từ Bi rót lên đời ta ngay từ lúc mới sơ sanh để ta sống sót. Phật Bà nói chung là má của tất cả mọi người. Má của người nào là Phật Bà mà chỉ có đứa con mới cảm nhận được thôi. Gần đất xa trời tôi mới cảm nghiệm được chơn lý đơn giản nầy. Tiếc quá! Tiếc nhưng biết làm sao hơn, nhân loại sanh ra để va vướng vào những mê lầm muôn thuở mà dầu ta có học xong bài học và được phép mầu làm cho trẻ lại nhiều lần đi nữa thì cũng mắc mê lầm lại y chang như cũ, cũng hờ hững và không thấu được lòng mẹ bao la…..” (Trích Chuyện mẹ nhân ái).
    Tình yêu là vấn đề muôn thuở của nhân loại. Những câu chuyện lịch sử đúng sai của ngàn đời, như Dương Thận nói, “Cũng chỉ rút lại vào câu chuyện phiếm bên chén rượu” (“Cổ kim đa thiểu sự/ Đô phó tiếu đàm trung”). Cái còn đọng lại muôn đời là tình yêu: tình yêu giữa người với người và tình yêu lứa đôi. Trong truyện ngắn Ao Bà Om cạn nước, Nguyễn Văn Sâm đã cổ động cho chúng ta thêm niềm tin yêu vào tình yêu thủy chung, son sắt. Qua hình ảnh ao Bà Om cạn nước, tác giả đã gửi gắm vào đó thông điệp: tình yêu trong mạch đập trái tim con người còn cao hơn cả lời thề, bền bỉ trường cửu hơn cả sự biến thiên của tạo vật. Dù cho người xưa có tin vào sự bất biến của thiên nhiên để lấy đó làm điểm tựa cho lời thề rằng: “Chừng nào cạn nước Ao Vuông/ Nhập chìm Long Trị mới buông lời thề”, thì đến khi cái ao vuông – tức ao Bà Om đó có thật sự cạn đi chăng nữa, thì tình yêu xuất phát từ trái tim vẫn vẹn nguyên, thuần khiết.
    Ngôn ngữ, hay nói cách khác, tiếng nói chính là văn hóa, là máu thịt của một xứ sở, một con người. Không phải ngẫu nhiên mà bất cứ ai cũng xúc động cõi lòng khi đọc câu thơ: “Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi/ Hương âm vô cải mấn mao tồi” (Tuổi trẻ ra đi, già mới về/ Dù râu tóc đã bạc, nhưng giọng quê vẫn không đổi) của Hạ Tri Chương đời Đường! Thiết nghĩ, “giọng quê vẫn không đổi” trong truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Văn Sâm (dù sau bao nhiêu năm bôn ba nơi xứ người), cũng chính là dụng ý của tác giả. Qua truyện ngắn của mình, Nguyễn Văn Sâm đã lưu trữ, bảo tồn được rất nhiều phương ngữ Nam Bộ. Có thể kể ra như: “chút xíu”, “ngó qua”, “bắt mắt”, “ẩu xị”, “nhón chưn”, “giựt”, v.v… Ngoài việc sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Nam Bộ, nhà văn Nguyễn Văn Sâm còn luôn “tìm cách” đan cài những câu phong dao, ca dao Nam Bộ vào trong tác phẩm của mình, như: “Mẹ mong gả thiếp về vườn/ Ăn bông bí luộc dưa hường nấu canh”; “Rực vàng bông bí sau vườn/ Thương em không dám leo tường cũng leo”; “Bông bí vàng lườm trong chùm xanh lá/ Anh ngắm em hoài sợ má em la”;  “Bụng dài như trái bí đao/ Nằm không ăn mãi ruộng sào cũng bay” (trong truyện Ca dao tập tàng); “Bần gie đom đóm đậu sáng ngời/ Lỡ duyên tại bậu trách trời sao đang” (trong truyện Ao Bà Om cạn nước), v.v…
    Có thể nói, GS Nguyễn Văn Sâm là người đa tài và thành công trên nhiều cương vị. Và dù ở cương vị nào, ông cũng nhất quán một mục tiêu là giữ gìn văn hóa truyền thống của dân tộc. Chúng tôi mạn phép nghĩ rằng, yêu nước có nhiều cách, song yêu nước qua việc tìm về cội nguồn dân tộc, giữ gìn và chấn hưng văn hóa truyền thống có lẽ chính là tình yêu nước sâu sắc nhất!
    Các nhà nghiên cứu trước đây khi viết về GS Nguyễn Văn Sâm, đều dành cho ông những mỹ từ trang trọng. Chẳng hạn, TS Hoàng Kim Oanh xác định vị trí đáng kể của ông trong dòng chảy văn chương Nam Bộ qua bài “Nguyễn Văn Sâm và dòng chảy văn chương Nam Kỳ Lục Tỉnh”; TS Nguyễn Văn Trần gọi ông là “Người giữ hồn dân tộc”; Nhà nghiên cứu Phan Tấn Hải tôn ông là “Người giữ hồn của nước”, v.v… Riêng tôi, dù chưa có vinh dự được GS đứng trên bục giảng dạy cho buổi nào, nhưng tôi luôn cung kính gọi ông bằng Thầy – chữ Thầy viết hoa. Bởi tôi học tập ở ông rất nhiều, không chỉ qua những công trình khảo cứu và dịch thuật Hán-Nôm mà còn học tập thái độ làm việc cần mẫn, vô vụ lợi của một nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống và một nhà văn đúng nghĩa “nhà văn” – rút ruột nhả tơ ra những áng văn chương nhằm chuyên chở những giá trị văn hóa truyền thống, tô điểm cho đời thêm lấp lánh, ngát hương.
 

– Nguyễn Thị Bích Đào

(Trung tâm Nghiên cứu Quốc học)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Truyện Thạch Sanh Lý Thông lưu truyền trong dân gian dưới hình thức chuyện kể truyền miệng chắc có đã lâu, phải hiện hữu trước khi ông Dương Minh Đức đưa bản văn sáng tác của mình sang bên Quảng Đông khắc ván ‒ cũng như đã từng đưa vài chục tác phẩm khác của nhóm, nhờ đó miền Nam Kỳ Lục tỉnh có được một số tác phẩm Nôm đáng kể mà người nghiên cứu Nôm thường gọi là Nôm Phật Trấn...
Sau tháng Tư năm 1975, tất cả những tác phẩm truyện ngắn truyện dài của các tác giả Việt Nam Cộng Hòa [1954-1975] đều bị chế độ mới, Xã hội chủ nghĩa cấm in ấn, phổ biến, lưu trữ. Tên tuổi tác giả, tác phẩm được công bố rõ ràng. Việc tưởng xong, là quá khứ. Bỗng dưng 32 năm sau năm, 2007, từ Hà Nội một nhà văn có chức quyền, có Đảng tịch, ông Phạm Xuân Nguyên, vận động, hô hào sẽ in lại một số tác phẩm Miền Nam, đang bị cấm. Trước tiên là 4 [bốn] tập truyện ngắn của Dương Nghiễm Mậu. Đó là các tác phẩm Đôi mắt trên trời, Cũng đành, Tiếng sáo người em út và Nhan sắc. Khi sách được phát hành có ngay phản ứng. Rất nhiều bài báo lần lượt xuất hiện liên tiếp trên các báo tại Sàigòn “đánh/ đập” ra trò. Hóa ra, những người vận động in lại sách là các cán bộ văn hóa từ Hà Nội. Hung hăng đánh phá là những cây bút… Sàigòn. Trong đó có Vũ Hạnh, một cán bộ nằm vùng, người trước kia bị chế độ Miền Nam bắt giam tù, Dương Nghiễm Mậu là một trong số các nhà văn, ký đơn xin ân xá cho Vũ Hạnh.
Kể lạ, ở “nước non mình”, bút hiệu của các nhà sáng tác qua nhiều lãnh vực văn chương, thi ca, âm nhạc, hội họa, nghiên cứu phê bình, truyền hình, báo chí, diễn viên, có bút hiệu/danh, là Sơn [không kể Sơn ở đầu như Sơn Nam, Sơn Tùng, Sơn Vương…] là đông vô số kể. Thiếu Sơn, Triều Sơn, Trúc Sơn, Phạm văn Sơn, Trịnh Công Sơn, Mai Sơn, Phong Sơn, Vân Sơn, Trần văn Sơn, Linh Sơn, Trần Áng Sơn, Từ Sơn, Vinh Sơn, Tiến Sơn, Cao Sơn, Ngô văn Sơn, Lê Thái Sơn, Nguyễn Lê La Sơn, Lê Tây Sơn. Chu Sơn, Tùng Sơn, Hoài Sơn, Đào Bá Sơn…Trong đó hai ông Sơn thi sĩ là….đáng yêu nhất. Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Bắc Sơn. Đáng yêu, vì hai ông này đều có tài, đều có cái lạ trong thơ, lẫn ngất ngư, ngất ngưỡng, ngất ngây trong đời sống.
Bài phỏng vấn dưới đây do Christian Salmon thực hiện, đăng trên quý san văn học The Paris Review năm 1983 và sau đó xuất hiện trong tập văn luận “Milan Kundera Nghệ thuật tiểu thuyết” xuất bản năm 1986...
Tiểu thuyết, theo Kundera, thể hiện trong mình “tinh thần của phức tạp”, “hiền minh của hoài nghi”, nó không đi tìm các câu trả lời mà đặt ra các câu hỏi, nó nghiên cứu “không phải hiện thực mà hiện sinh”, nghiên cứu chính ngay bản chất sự tồn tại của con người...
Milan Kundera, nhà văn nổi tiếng quốc tế với những tác phẩm văn học bất đồng chính kiến ở Tiệp Khắc thời Cộng sản đã khiến ông phải sống cuộc đời lưu vong từ năm 1975, vừa qua đời ở Paris. Ông thọ 94 tuổi...
Cuộc phỏng vấn được thực hiện với ông Hoàng Hưng, cựu giáo viên trung học môn Văn, nhà thơ, dịch giả từ miền Bắc, và ông Lê Nguyễn, nhà nghiên cứu lịch sử độc lập, cựu Phụ tá Tỉnh trưởng đặc trách Phát triển Kinh tế dưới chế độ VNCH, từ miền Nam...
Anh tặng em mùi máu / Trên áo trận sa trường / Máu anh và máu địch / Xin em cùng xót thương... (Thơ TMT).
Lớp tuổi của chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên trong những thập niên 30, 40, 50 của thế kỷ trước, được cắp sách đi học đến bậc trung học, chắc có lẽ ai ai cũng biết đến ông, nhà văn Nhất Linh, người sáng lập Tự Lực Văn Đoàn, nhà hoạt động cách mạng và chính trị Nguyễn Tường Tam. Hình ảnh của ông là biểu tượng cho một ước vọng tuổi trẻ – tuổi thanh niên lúc bấy giờ:..
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.