Hôm nay,  

Viễn Phố: Người đàn bà đằng sau bộ “Văn Học Miền Nam 1954-1975”

30/07/202415:05:00(Xem: 2534)

vo phien 1

Trái, anh Võ Phiến và chị Viễn Phố trước cửa nhà; phải, anh chị trên đường về nhà từ quán ăn tại sân golf đối diện với khu cư xá của anh chị tại Santa Ana, Nam California, ngày 6 tháng 10, 2009. (Ảnh Trùng Dương)

 

Lời giới thiệu: Tôi không khỏi bâng khuâng được tin Chị Võ Phiến, tên thật là Viễn Phố, phu nhân nhà văn Võ Phiến (1925-2015), đã qua đời ngày 24 tháng 7, 2024, hưởng thọ 94 tuổi.  Trong số các bạn đời của các bạn văn của tôi, chị là người phối ngẫu tôi có dịp gần gũi hơn cả, từ khi anh còn sống và cả sau khi anh đã qua đời. Kỷ niệm sâu sắc nhất tôi có với chị là thời gian mấy ngày ở với chị sau ngày anh mất và đang nằm chờ khâm liệm ở nhà quàn, trong ngôi nhà hai tầng trong một cư xá yên tĩnh ở Santa Ana chị ở có một mình. Hình ảnh tôi không quên được là chị ngồi gọi điện thoại đó đây sắp xếp việc chung sự cho anh, trước một đống mấy trăm tấm thiệp “Tạ từ” anh đã cho in sẵn từ bao giờ chị nói không hay, với bài thơ ngắn tựa là “Đến”—Mải miết ra đi đâu tính đến / Đến nơi nào? / Bẩy tám mươi năm rồi cũng đến / Đến rồi sao! Lúc ấy chị đã 85 tuổi, đã phải dùng tới walker để di chuyển trong nhà, nhưng chị vẫn lo tang chay cho anh chu đáo, như chị đã lo cho anh và cả sự nghiệp văn học của anh suốt nhiều thập niên chung sống.
    Nghĩ tới chị nay đã an nghỉ và hồn có thể đã đoàn tụ với anh ở đâu đó, tôi không khỏi nhớ tới một bài viết về chị 15 năm trước. Xin soạn lại ở dây, như một nén nhang gửi tới cả hai anh chị, với lòng biết ơn về di sản anh chị đã để lại cho các thế hệ Việt tự do.

[TD, 2024]
 
*
 
Kể từ hôm ghé thăm chúc Tết anh Võ Phiến và chị Viễn Phố với các bạn văn nghệ hồi đầu năm tới nay đã... lại sắp tới một cái Tết nữa. Mặc dù đã xuống Nam Cali hai lần sau đó vì việc gia đình, mãi tới đầu tháng 10 tôi mới thu xếp để ghé thăm anh chị trở lại. Dự tính chỉ ở chơi với anh chị một tiếng vì không muốn hai ông bà đã ngoài 80 phải tiếp khách lâu. Vậy mà 4 tiếng đồng hồ sau mới giã từ mà vẫn còn nhiều vương vấn, bịn rịn.
    Buổi ghé thăm anh chị lần này đã để lại trong tôi một xúc động đặc biệt. Cũng có thể vì đây cũng là lần đầu tiên tôi ghé thăm anh chị một mình kể từ khi anh chị về hưu và dọn về vùng Quận Cam, thành ra coi như tôi “có” anh chị cho riêng mình tôi tới 4 tiếng đồng hồ. Hẹn từ 11 tới 12 giờ sáng (tôi phòng hờ có thể đi lạc vì là lần đầu đến nhà anh chị một mình, khác với những lần trước đều có một vài bạn văn cùng đi), mà mới 11g hơn đã thấy chị đứng sẵn ở cổng bên mấy bụi hoa hồng chờ khi tôi lái xe vào khoảng sân trước nhà để xe (nay đã biến thành kho chứa sách vì đã nhiều năm anh chị không còn lái xe). Bước vào nhà đã thấy anh áo quần tề chỉnh, cả đội mũ nữa, chắc cho ấm đầu với mái tóc trắng còn lưa thưa, đang chờ khách. Tôi cảm động lắm, vì rõ ràng là anh chị đang ngóng khách phương xa.
    Lần nào ghé thăm anh, chị cũng đều góp mặt, khiến tôi cảm thấy gần gũi với chị ngay từ lần đầu tiên đến thăm ở căn nhà trên đường Baltimore ở Los Angles đã 25 năm về trước, đấy cũng là lần đầu tiên tôi gặp chị – xưa ở Sàigòn, tôi nhớ mình thường chỉ gặp anh, cũng như nhiều bạn văn nghệ khác, hoặc ở các toà báo hoặc ngoài quán cà phê, ít khi đến nhà ai. Lần này chị lại càng cần góp mặt hơn nữa vì đôi lần tôi thấy chị định đứng lên làm gì đó, như đi lấy khay nước trà với dĩa bánh Trung Thu đãi khách, thì anh, ngồi đối diện với tôi tại bàn ăn, lại kéo tay chị nói ngồi để nghe rồi nói lại cho anh. Hiểu ra, tôi phải nói lớn hơn và chậm lại để anh nghe kịp.
    Tôi kể anh chị nghe về chuyến đi Âu châu hè rồi, đặc biệt hôm ghé thăm Hồ Trường An ở Troyes, cách Paris 2 tiếng lái xe, ngay sau khi vừa đặt chân tới Paris vì sợ sau đó mải đi đó đây sẽ không có dịp. Nghe chuyện, anh chị mới biết Hồ Trường An hồi đầu năm bị một trận tai biến mạch máu khiến nửa người bên mặt bị liệt, tay phải chưa sử dụng được, vẫn còn đang tập. Thảo nào đã lâu không được thơ từ gì của Hồ Trường An, chị nói. Thơ nào ảnh cũng viết thật dài, kể nhiều chuyện, làm không được thơ của An cũng nhớ. Anh nghe chuyện, nhưng mắt nhìn chị như chờ chị lặp lại vì nặng tai, anh nghe câu được câu không. Tôi thấy, và ái ngại, rõ ràng anh phải cố gắng để theo dõi câu chuyện. Vậy chứ nghe xong rồi quên ngay, chị bảo với tôi. Tuy vậy, anh còn nhớ một điều về Hồ Trường An, và hỏi thăm tôi anh An còn sống với người bạn đời Bernard. Tôi đáp còn, và thêm, chính Bernard đã vào ra nhà thương coi sóc nhà văn tận tình tới độ sau đó chính anh ta cũng phải vô nhà thương nằm một thời gian vì bị suy nhược tâm thần. Tôi thấy anh gật gù, nhưng chắc chút nữa thế nào cũng hỏi lại chị tin về Hồ Trường An.
    Có một lúc anh đi lại bàn làm việc ở góc nhà, mò mẫm, rồi đem lại chỗ chúng tôi trang nhất của tờ Việt Herald số gần đây đã gấp nhỏ lại để góc dưới tay mặt của trang báo nằm ở trên, cho thấy bài tôi mới viết, "Câu chuyện văn học miền Nam: Tìm ở đâu?" Bài đã và đang gây nhiều phản ứng thú vị. Anh đưa tôi coi, tôi nói, ô, như vậy là anh đã đọc bài này rồi. Đọc rồi nhưng quên rồi, chị đáp hộ anh. Tôi cụt hứng, tính kể anh nghe, song bỏ ý định đó, về vài ý kiến của người đọc đăng dưới bài đó trên trang Blog Nguyễn Xuân Hoàng và Bạn Hữu tại Web site của đài Voice of America. Chị bảo tôi, bây giờ anh ấy không nhớ những chuyện vừa xẩy ra.
    Quả là anh không nhớ những chuyện vừa mới xẩy ra, vì một lúc sau, anh chợt nhìn thấy trang báo còn nằm trên mặt bàn, chỉ cho tôi thấy tên tôi dưới tựa bài báo, như thể anh mới nhìn thấy lần đầu. Tôi nghe xót xa thế nào. Tôi đọc ở đâu đó về việc người ta càng lớn tuổi càng chỉ nhớ những chuyện trong dĩ vãng xa xưa, có khi thật xa xưa. Và tôi có dịp nhìn thấy điều đó ở anh. Khi chờ đồ ăn tại quán ăn của sân golf bên kia đường đối diện với khu nhà của anh chị, tôi nhớ có gợi lại hồi tôi mới quen anh cho chị cùng nghe, mặc dù có thể tôi đã kể ở đâu đó rồi.
    Dạo ấy, vào đầu thập niên 1960, tôi đọc truyện Giã Từ của anh, cảm kích, tôi viết thư cho anh. Tôi nhớ có một câu tôi viết, đại ý, là tôi thèm cái kinh nghiệm của thế hệ của anh, rồi ký tên khai sinh của mình, bỏ đi chữ "thị" ở giữa vì hồi ấy tôi không thích cái tên đệm cho con gái đó. Anh viết thơ hồi âm tôi, gọi tôi là “anh”, có một câu, đại ý, rằng còn anh thì anh ước còn đủ hăng say để sống cái thời đại của tôi. Anh mời tôi có dịp ghé lại thăm anh ở nơi làm việc, tại tòa nhà của Nha Thông tin góc đường Catinat/Tự Do xế tòa nhà Quốc Hội ở Sàigòn hồi ấy. Chỉ khi tôi bước vào phòng làm việc và tự giới thiệu, anh mới biết tôi không phải là một “anh” như anh đã gọi tôi trong thư hồi âm.
    Rồi câu chuyện xoay quanh thời đại của Giã Từ. Anh trở nên linh hoạt hẳn ra, chị nhìn anh vui ra mặt. Xoay qua tôi, chị khuyến khích tôi hỏi thêm để anh kể chuyện. Cô thấy anh ấy khác với hồi nãy lúc còn ở nhà không, chị bảo tôi.  
    Anh kể, và đến phiên tôi cố gắng theo dõi những lời kể tuy linh động song không được mạch lạc lắm, về hồi mới “bỏ kháng chiến” về thành và làm công chức cho Ty (hay Nha?) Thông tin ở Bình Định (hay Thừa Thiên), trong khi chị chêm vào những điều chị nhớ khi anh có vẻ ngập ngừng, hoặc chưa tìm ra chữ. Một giai thoại nổi bật khiến tôi cũng tò mò. Có một lần ông Ngô Đình Diệm, hồi ấy còn là một nhà chí sĩ (hay đã thành tổng thống?), đi thăm dân trong vùng. Anh kể, với những hình ảnh rời rạc và tôi đã phải sắp xếp lại: Người ta xô nhau để tới gần đặng sờ vào ông vì nghe tên ông đã lâu, coi ông như một vị cứu tinh của họ. Nhiều người đạp cả lên giầy của ông làm đôi giầy lấm đầy bùn. Một phóng viên nhiếp ảnh ngoại quốc đã chụp được một chiếc giầy lấm bùn đo, đưa lên mặt báo, có lẽ là một tờ báo Pháp nào đó, với lời chú thích, “Un soulier eloquent”. Rồi anh có vẻ tiếc là “bên mình” đã không biết khai thác cái hình ảnh đó cho công cuộc tuyên truyền.
    Một thoáng linh hoạt của anh cũng làm chị vui không che giấu. Tôi nói với anh, với tất cả sự chân thật, và cũng muốn chị cùng nghe, là theo tôi anh đã làm những gì cần làm trong phần đời còn lại, đặc biệt là bộ Văn Học Miền Nam gồm bẩy cuốn của anh là một viên ngọc quý giá của nền văn học Việt Nam hải ngoại, và nó sẽ là một tài liệu mà những ai muốn nghiên cứu về văn học miền Nam 1954-1975 đều không thể không tham khảo. Đồng ý là chúng ta hiện có hai nguồn chứa sách báo Việt quan trọng, kể cả nhiều cuốn đã bị người Cộng sản hủy hoại trong phong trào đốt sách điên cuồng vào cuối năm 1975, đó là thư viện Quốc Hội Mỹ và thư viện Kroch Asia của Đại học Cornell, nhưng những tài liệu ấy là những tài liệu rời. Bộ sách của anh đã cho những nhà khảo cứu tương lai bản hướng dẫn cần thiết. Anh có quyền nghỉ ngơi, dưỡng già. Anh nghe, hay không, tôi không biết, chỉ thấy mắt anh lặng lẽ nhìn ra sân golf xanh mướt mầu cỏ tắm trong nắng thu ngoài cửa sổ của tiệm ăn.
    Nhưng khi nghe tôi hỏi là nếu không có chị thì anh có thực hiện được bộ sách mà anh đã bỏ gần hết quãng đời trên 30 năm lưu xứ ra vừa sưu tầm vừa đọc vừa viết, trong khi vẫn đi làm công chức toàn thời, thì anh lắc đầu, song không nói gì, không rõ anh có hiểu. Tôi nhìn sang chỗ chị lúc ấy đang ngồi giữa hai chúng tôi, đôi mắt rưng rưng.
    Mặc dù cũng đi làm toàn thời như anh, rồi nuôi một bầy con bốn người ba trai một gái, với hai người con trai kẹt lại ở Việt Nam mãi nhiều năm sau mới qua được, rồi cơm nước, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa, vườn tược, song chị cũng còn giữ phần đánh máy tất cả những trang bản thảo của anh. Bảo làm sao chị không cùng thương những đứa con tinh thần của anh cho được, dù cho chúng có ra thể nào, và nâng niu, bảo bọc chúng. Tôi tẩn mẩn thầm hỏi: Giá anh không đọc lái tên chị Viễn Phố thành Võ Phiến, rồi dùng nó làm bút hiệu từ đó, thì liệu chị có vẫn cảm thấy những đứa con tinh thần đông đảo của anh gần gụi với chị đến thế? Hỏi, song tôi biết câu trả lời, đó là chị vẫn hết lòng với sự nghiệp văn học của anh. Chị rành rẽ chuyện văn học Miền Nam hơn nhiều người tôi quen biết.
    Mặc thời đại vi tính với Internet, anh vẫn chăm chỉ... viết tay. Tôi còn nhớ có lần nghe anh nói anh phải cảm thấy da thịt của tay mình tiếp xúc với mặt giấy mới cảm thấy hứng khởi và yên tâm sáng tác được, hay một ý tương tự. Tôi hình dung mặt tờ giấy đối với anh có lẽ cũng giống như cái “security blanket” đối với nhiều trẻ nhỏ.
     Nhưng từ vài năm nay anh không còn viết nữa. Một đời gắn liền với chữ nghĩa bỗng như hụt hẫng, thừa thãi, chị nói riêng với tôi, nước mắt long lanh. Anh tự hỏi tại sao mình sống lâu như vậy. Tôi vỗ về cánh tay trái mới té gãy và còn băng bột của chị. Chị rất sợ lỡ phải “đi” trước anh, vì không biết ai sẽ săn sóc anh được như chị săn sóc anh. Chị không muốn con cái phải bận tâm nhiều về cha mẹ già. Hôm chị té gẫy tay, mãi tới sau khi đi bác sĩ băng bó xong xuôi, đến tối mấy người con mới hay.
    Khi trở lại nhà, chị kêu anh đi nghỉ trưa để chị cùng với tôi xuống nhà kho soạn sách của anh, vì tôi có hỏi xin một bộ Văn Học Miền Nam gồm bẩy cuốn (song chị chỉ còn có năm cuốn) cho một người quen trẻ ở Việt Nam vẫn ao ước có được bộ sách đó. Tôi kể chị nghe về người trẻ này: Ra đời ba năm sau khi mình đã tan hàng, kẻ lưu xứ, người vùi thây dưới lòng biển trên đường đi tìm tự do, kẻ tù đầy, và sách báo miền Nam bị hoả thiêu, nhưng cậu ta đã chỉ yêu đọc sách miền Nam trước 1975. Hỏi tại sao thì cậu trả lời, “Vì ở đó có sự thật.” Chị nghe, đôí mắt loé lên một niềm vui.
    Chị kể sở dĩ chị còn một số sách này vì hồi cách đây hơn một năm, nhà xuất bản Văn Nghệ ở Westminster, Nam California, dẹp tiệm (sau nhiều năm không đòi được tiền bán sách của một số nhà sách, nên bị thua lỗ, và phá sản); và người chủ trương, ông Võ Thắng Tiết, phải xé bìa (“đến chảy cả máu tay”, theo lời chị) bỏ đi, rồi đem bán sách như giấy lộn. Không nỡ nhìn những cuốn sách của anh lâm vào cảnh đó, chị nhờ các con tới chở về chất đầy hai tủ đứng trong nhà chứa xe.
    Trao chồng sách cho tôi, chị nói chị hy vọng có người sẽ viết về các công trình văn học của anh. Thực ra thì đã có một số sách viết về anh, như cuốn Võ Phiến của Nguyễn Hưng Quốc (Văn Nghệ, 1996), hoặc gần đây hơn, cuốn Võ Phiến and the Sadness of Exile của John C. Schafer (Southeast Asia Publications, 2006), và nhiều bài khác, trong đó có bài tiểu luận “Võ Phiến” của Thụy Khuê (RFI, Pháp), đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu số 103, tháng 12-2008. Ngoài ra còn có một số luận án về sự nghiệp văn học của anh, trong đó có tập Vo Phien: Culture Nationale, Lectures Occidentales của Trương Thị Liễu, nạp tại Đại Học Sorbonne, phân khoa Văn Chương Đối Chiếu, năm 2001.
    Tôi ra về, trong đầu lởn vởn ba câu thơ của anh làm năm 1986, mà chị đọc cho tôi nghe trước đó. Tôi đã hỏi chị sao chỉ có ba câu, chị đáp, ai mà biết, cô hỏi tác giả xem. Tôi đáp, nhìn sang cửa phòng anh đã khép, thôi để anh nghỉ, tôi xin phép về, cũng để chị nghỉ nữa. Tôi nghĩ là tôi hiểu vì sao bài thơ chỉ có ba câu:
 
Ra đi tuổi chẵn năm mươi,
Năm mươi tuổi nữa nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê...

vo phien 2

vo phien 3Chị Võ Phiến đang liên lạc đó đây bàn chuyện tang lễ cho anh
bên mớ thiệp “Tạ Từ” anh soạn sẵn. (Ảnh trùng Dương, 2015)
 

Trùng Dương

(2009, hiệu đính 2024)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đây chỉ là cách nói nhẹ đi, thay cho lối nói có thể bị coi là sỗ sàng, làm khó chịu, xúc phạm. Tôi chỉ muốn nói từ CHẾT...
Sau khi nhổ răng, tôi xin anh nha sĩ trẻ mấy cái răng chết, khá thê thảm, để mang về. Lần trước cũng vậy. Anh tỏ vẻ thông cảm. “Bác giữ làm kỷ niệm?” “Vâng. Chúng nó theo tôi bảy mươi mấy năm rồi. Chiến đấu giỏi lắm. Giữ xác lại để nhớ.” Đúng. Răng kề cận người hơn tình nhân. Ở với người trung thành hơn vợ. Nói cắn là cắn, nói nhai là nhai, nói nhe là nhe, nói ngậm là ngậm. Tuyệt nhiên vâng lời, không cãi cọ gì. Chỉ có già đi, lỏng chân, rồi vĩnh biệt.
Gần đây cô cũng hay nghĩ về người chồng xấu số. Đúng ra cô thấy anh trong những giấc mơ. Cô thấy anh và cô đi dạo tại những nơi chốn thơ mộng của vùng đất cố đô nơi cô sinh ra và lớn lên. Những giấc mơ lạ, bởi cô gặp anh và kết hôn với anh khi cô đã vào Nam. Anh là người miền Nam và không hề ra thăm miền đất đó bao giờ. Nhưng trong giấc mơ cô thấy cô và anh thật rõ, khi thì ngồi bên nhau trong ngôi nhà cổ của ba mạ cô ở khu Gia Hội, khi thì thơ thẩn bên bờ sông Hương gần ngôi trường Trung học thân yêu của cô, khi thì đứng dưới bóng mát ngôi nhà thờ uy nghiêm sừng sững trên một ngọn đồi.
Trong buổi tiếp kiến ban biên tập nguyệt san “Phụ nữ Giáo hội Thế giới” của báo Quan sát viên Roma của Toà Thánh, trong tuần qua, dịp kỷ niệm 10 năm thành lập, Đức Thánh Cha khích lệ mọi người và nói: “Phụ nữ có khả năng nói ba ngôn ngữ: lý trí, trái tim và đôi tay”. Có phải Đức Thánh Cha muốn nói: Đối với phụ nữ ba điều này là một: Một người phụ nữ thông minh họ có thể dùng đầu óc mình để thành đạt trong học vấn, trong nghề nghiệp nhưng đồng thời với trí óc thông minh, trái tim mẫn cảm, họ cũng dùng thêm đôi tay của mình để tạo ra những sản phẩm đẹp đẽ và đầy trí tuệ, đầy tình yêu.
Trên Văn Việt ngày 16 tháng 2 vừa qua, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (University of New South Wales, Sydney, Úc) cho biết một số độc giả trên mạng đã hiểu một cách sai lầm rằng câu “Lưỡi lê no máu rửa Tây hồ” là thơ của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ chuyện ngộ nhận ấy, nhiều vị viết lời bình luận rằng Vũ Hoàng Chương là một người sắt máu, chẳng khác gì Tố Hữu ngoài Bắc. Cũng qua câu trên, có người cho rằng thơ văn miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà cũng “máu me” lắm chứ chẳng nhân bản, nhân văn gì. Theo Giáo sư Tuấn, “Sự thật có lẽ không phải vậy, mà chỉ là một sự bịa đặt trong một cuốn tiểu thuyết, cuốn Ván Bài Lật Ngửa của tác giả Nguyễn Trương Thiên Lý” (tức nhà văn, nhà biên khảo, Ủy viên Tuyên huấn Trung ương Trần Bạch Đằng). Giáo sư Tuấn cho biết là câu ấy không có trong bài “Lửa từ bi” của Vũ Hoàng Chương, và chụp lại bài thơ “Từ đây” trong tập thơ Hoa Đăng của thi nhân họ Vũ (Sài Gòn : Văn Hữu Á Châu, 1959) để chứng minh rằng câu thơ ghê gớm ấy cũng không có trong đó:
Trong tiểu thuyết HIỆP KHÁCH HÀNH, nhà văn Kim Dung kể chuyện về cuộc phiêu lưu của chàng trai trẻ Thạch Phá Thiên từ năm 12 tuổi, không cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn hữu, không học hành chữ nghĩa, không võ công, không tiền của, mà tình cờ lạc vào giữa chốn võ lâm giang hồ. Đọc xong bộ truyện, tôi tò mò muốn tìm hiểu bài thơ HIỆP KHÁCH HÀNH của thi hào Lý Bạch...
Ngày Xuân Phân là ngày chính giữa của mùa Xuân theo âm lịch và cũng là ngày đầu tiên của mùa Xuân ở Bắc bán cầu theo dương lịch (Vernal Equinox). Trong ngày này, thời gian của ban ngày và ban đêm bằng nhau, nói cách khác là âm dương cân bằng. Nhờ thế vạn vật bắt đầu sinh sôi nảy nở, hoa sẽ dâng hương cho niệm xuân tình. Trong một ngày lập xuân nhiều thế kỷ trước, Sư Huyền Quang [?] ngẫu nhiên bắt gặp hình ảnh một thiếu nữ bên song liền viết bài “Xuân Nhật Tức Sự”. Bài thơ tả người thiếu nữ đang thêu thùa, bỗng chim hoàng oanh líu lo từ lùm tử kinh bên ngoài khiến nàng ngừng mũi kim. Không tiếng lời vì xuân tràn trong ngỏ ý, ngoại cảnh cũng như tâm tư. Nói lời gì cũng bằng thừa khi mạch mới tràn dâng. Nụ đang chúm, không chỉ hoa, nụ còn là môi bung cánh sen, đỏ hường xuân thắm. Bởi vì bây giờ đã sang xuân. Xuân đang thì...
Ly dị, thông thường, bắt đầu bằng vết thương lòng. Những vết thương sâu đậm, máu chảy dai dẳng sẽ từ từ ẩn vào tiềm thức và ảnh hưởng vô thức hoạt động đưa ra những ý nghĩ về khuynh hướng ly hôn. Trong một số trường hợp, vết thương nhẹ, rướm máu sơ sài, nhưng bỗng dưng lớn chuyện, vì tự ái, vì tiếp tục tranh cãi, vì giận quá lỡ lời, vì bạo hành thiếu suy nghĩ. Từ đó, ly nước đã đổ xuống đất, làm sao để hốt lên? Trong một số trường hợp khác, có kẻ muốn ly dị vì nhiều lý do, từ tài chánh cho đến người thứ ba; từ xung đột trong đại gia đình đến thành công hoặc thất bại trên đường đời. Những trường hợp này vô cùng phức tạp, khó có thể giải thích cặn kẽ. Khó phân định lỗi phải. Tuy nhiên, có thể kết luận: Nếu yêu nhau đủ thì khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Nhà nhân loại học Paul Bohannan đưa ra lý thuyết về ly dị, trình bày sáu giai đoạn riêng biệt mà một cá nhân sẽ trải qua trên đường ly hôn. Bohannan xác nhận: sáu giai đoạn có thể xảy ra theo thứ tự khác nhau và với cường độ khác nhau
Buổi ra mắt tập thơ “Tháng năm là mộng đang đi” của Nguyễn Thị Khánh Minh đã hoàn tất, nhưng nhiều câu hỏi vẫn lơ lửng sau khi nhà thơ nổi tiếng này nói rằng ấn phẩm này có lẽ là tập thơ cuối cùng của chị. Không có lời giải thích rõ ràng vì sao tập thơ thứ 12 này có thể là ấn phẩm cuối cùng của chị, nhưng buổi ra mắt sách hôm 25/2/2023 tại một quán cà phê giữa Little Saigon đã để lại nhiều kỷ niệm trong những người yêu thơ tham dự.
Đã năm mươi năm trôi qua, nguyên nhân thực sự về cái chết của nhà thơ Pablo Neruda vẫn là một câu hỏi còn bỏ ngỏ đối với nhiều người trên thế giới. Ông đột ngột lìa đời sau cuộc đảo chánh năm 1973 của Chile. Pablo Neruda không chỉ là nhà thơ từng đoạt giải Nobel danh giá, mà còn là một trong những nhà hoạt động chính trị có ảnh hưởng nhất ở Chile. Pablo Neruda công khai theo chủ nghĩa cộng sản, thẳng thắn ủng hộ và làm việc trong chính quyền của Salvador Allende, vị tổng thống cánh tả của Chile, cầm quyền từ năm 1970 đến năm 1973.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.