Hôm nay,  

Bóng Trăng Trắng Ngà*

20/09/202400:00:00(Xem: 1464)

iStock-1137367559
Nguồn ảnh: istockphoto.com

Những tia nắng hồng cuối cùng đã tắt trong ánh hoàng hôn chiều tà nhưng bầu trời vẫn trong sáng từ một thứ ánh sáng huyền bí; vẫn chưa có vì tinh tú nào xuất hiện, tuy nhiên màn đêm hôm nay hẳn là một trong những buổi chiều tối đẹp nhất mà cả thế gian này chưa từng bao giờ chứng kiến.
 
Bên phía đại dương, nhìn như có vẻ tối tăm sẫm màu hơn dưới bầu trời rực sáng; bóng tối hoặc ánh màu phản chiếu không còn in trên nền đất liền màu nâu đậm nữa; toàn bộ phần vách đã gần đó giờ chỉ còn là một khối khổng lồ, là một khối đá hoa cương khô khan chênh vênh, nguy hiểm. Con đường mòn gồ ghề trắc trở chạy men theo bờ biển dọc theo những tảng đá, nơi đó những con sóng rì rầm đập vào không ngớt, nơi đây những người dân làng có việc cần hoặc những người chăn cừu đưa bọn cừu hoang dã chưa được thuần thục đã dẫm đạp lên ngàn vạn lần.
 
Một người đàn ông đang lê những bước chậm chạp, đầu cúi xuống, không hề nghĩ về những gì đang trải ra trước mắt nhưng đầu óc tràn đầy đắng cay đang nhìn thấy theo những điều diễn ra trong tâm trí anh ta. Ông đã sống nhiều năm bên trên cao kia, trong ngôi nhà ở một hốc đá, với người vợ mà ông yêu thương hết lòng; họ rất hạnh phúc, hay ít ra họ nghĩ họ được như thế; nhưng rồi, không biết tại sao  đột nhiên mầm bất hòa cho một cuộc cãi vã thật cay đắng lại xảy ra cách đây không lâu.
 
Họ vẫn yêu nhau nhưng nhận ra rằng không thể sống cùng nhau được nữa. Thế thì phải xa nhau ư?  Mãi mãi nói lời tạm biệt hay sao? Không còn sống bên nhau với niềm tiếc thương đau đớn xót xa, nhớ da diết khôn nguôi về hạnh phúc đã mất không bao giờ quay trở lại! Đây là điều họ đã quyết định ngay ngày hôm đó, trong khi mặt trời nóng rát đang thiêu đốt những phiến đá nhẵn ở ngưỡng cửa, khiến đàn ruồi quấy rầy bực bội ùa vào nơi chốn nghèo nàn xơ xác của họ.
 
-- Thế thì như thế này đây! Thôi đủ rồi, tôi đi đây, --cô nói để chấm dứt cuộc cãi vã. 
-- Em muốn thì em cứ đi đi,-- anh trả lời, đôi tay trở nên uể oải, đầu óc mệt mỏi,  bải hoải vì những cuộc cãi vã kéo dài phù phiếm, vô ích. Và bây giờ anh nghĩ rằng cô ấy sẽ đi xa, rằng anh sẽ bị bỏ lại một mình, trong ngôi nhà này, ở xứ sở này... 
 
Anh lê bước đi dọc bờ biển: chân anh không hề vấp phải những tảng đá, trên con đường này, lối mòn mà anh đã sãi chân không biết bao nhiêu lần, nhưng con tim đau đớn của anh lại đang bị vấp bởi tất cả những điều chua xót nhức nhối mà đầu óc anh đang phải đối đầu xé nát. 
Bầu trời trở nên trong hơn, rồi lại trong sáng hơn nữa; nhìn như thể toàn bộ khung trời quanh đây sắp rực sáng lên trong một thứ ánh sáng trắng đục. Anh nhìn cảnh vật bằng ánh mắt vô cảm. Trông thật đẹp; thật êm dịu, làm con tim ta rung động như những giọt nước mắt của một đứa trẻ ăn năn hối lỗi; nhưng anh không muốn chạnh lòng bởi những điều không ảnh hưởng đến anh.
 
Những đau khổ hiện thời của anh chắc hẳn cũng đã quá nhiều đối với anh rồi - cảnh vật chung quanh còn đòi hỏi gì ở anh nữa đây? Anh quay lưng không nhìn cảnh hoàng hôn thật tuyệt và tiếp tục những bước cô đơn, hờ hững.
. . . . . .

Một bóng người đang bước đi thật nhanh từ khu nhà ở xuống con đường dốc thẳng đứng, và đột nhiên khi vừa ngước mắt nhìn lên, anh nhìn thấy cái bóng ấy. Bóng hình không sẫm tối và mù mờ như con đường mòn anh đang bước đi, mà dường như được bao phủ bởi một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, chập chờn, bay bổng…
 
Đúng là cô ấy rồi; cô còn muốn anh làm gì nữa? Có phải cô ấy đến gây sự với anh ngay cả khi anh rảo bước đi dạo về đêm không? Anh lùi bước, quay lưng lại với cô, không muốn nhìn thấy cô, bởi tâm hồn anh đang thật rối bời, đau xót. Cô bước đi rất nhanh, còn anh thì xấu hổ vội vã bước đi, cảm nhận rằng mình đang chạy trốn.
 
Chỉ vài phút sau là cô đuổi kịp được anh, và anh nghe thấy tiếng thở của cô ngay bên cạnh, cô có vẻ hụt hơi vì bước nhanh-
 
 – Này phu quân của em, mình ơi... -  cô nói rất nhẹ nhàng.
 
 
Anh cảm thấy tim mình sẽ thắt, như muốn tan chảy, cơn giận đã dịu đi, và anh đã xiêu lòng, tâm hồn trở nên thật yếu đuối và nỗi cay đắng bỗng như tan biến đi.
 
 – Em đã sai rồi, cô ấy nói, -- em đã thật sự hành xử rất sai trái;  em đã thật xấu tính, vô lý, gắt gỏng; em cũng không biết tại sao em lại như vậy, có lẽ em bị bệnh, có một điều gì bất thường trong con người của em... nhưng anh ơi, em không thể bỏ đi! 
 
- Em không thể rời xa anh...  Em yêu anh hơn cả cuộc sống, hơn cả sinh mạng của em, em biết lỗi rồi, em sẽ sửa lỗi, em sẽ trở lại người vợ hiền ngoan tốt của anh như trước đây, nhưng anh ơi, xin anh tha thứ cho em đi anh, anh ơi!
 
- Anh hãy tha lỗi cho em nhé anh! 
 
Anh quay đầu về phía cô; anh không thể nào làm khác đi, làm sao anh có thể làm khác đi được cơ chứ?
 
Ngay lúc đó, -- Ô kìa!  Bóng trăng thật rực rỡ vừa nhô lên khỏi rặng cây, vượt lên trên đường chân trời, tạo nên khung cảnh thật nên thơ, một vầng sáng tuyệt diệu dần dà bao quanh họ, khiến anh nhìn thấy được khuôn mặt mà anh hằng yêu dấu,  thật rõ nét như giữa ban ngày...
 
Thật vậy... anh vẫn luôn yêu cô, bây giờ anh nhận thấy rất rõ điều này, ôi khuôn mặt quá đỗi thân yêu, đang đầm đìa nước mắt, càng dịu dàng hơn vì nỗi u uất, ôi gương mặt nàng, những nét thanh cao trở nên cao quý vô vàn... Và anh ôm cô vào lòng thật chặt, như sợ cô sẽ bỏ đi nữa.
 
Giờ đây ngôn từ không còn cần thiết nữa; họ đã trao gởi bao yêu thương từ rất lâu rồi; nhưng trong  giây phút này,  sát bên nhau như thế này, họ cảm thấy rằng những phút giây đau buồn vừa mới qua chẳng là gì cả, rằng chỉ có tình yêu của họ là vĩnh cửu, và cho dù hạnh phúc hay không may mắn được một cuộc sống lứa đôi hoàn hảo bên nhau, dù muốn hay không, con tim của hai người sẽ vẫn phải đập chung một nhịp cho đến hơi thở cuối cùng, bởi vì họ không thể sống thiếu nhau. 
 
 Và, sau đó,  lòng tràn ngập niềm vui vô tận và ướt đẫm nước mắt, họ cùng ngước nhìn chiếc quạt nan màu vàng nhạt  đang giăng lên bên trên mặt biển ấm áp, càng lúc càng lớn dần, càng huyền dịu hơn...
 càng tuyệt vời hơn... như trong trái tim của hai người vừa tìm lại được niềm Hạnh Phúc vô biên...
 
 HENRY GREVILLE (Lever de lune) - Thái Lan dịch
 
( *Thằng Cuội - Nhạc sĩ: Lê Thương )
 
 
***
 
HENRY GREVILLE (1842-1902)
 
 GREVILLE- 1870
 
Alice Marie Céleste Fleury là con gái của Jean Fleury, một nhà văn và giáo sư người Haguais ở Paris. Cô đi cùng ông đến Nga khi ông trở thành độc giả văn học Pháp tại Đại học Hoàng gia Saint Petersburg. Cô học ngôn ngữ và khoa học ở đó và gặp Émile Durand, một giáo sư luật và người yêu nghệ thuật người Pháp, ho thanh hôn vào năm 1873.

Cô bắt đầu viết trên Journal de Saint-Pétersbourg, sau đó khi trở về Pháp, vào năm 1872, cô lấy bút danh là Henry Gréville, để nhớ ngôi làng của cha mẹ cô (Henry là tên của nam gii). Bà viết tiểu thuyết về xã hội Nga và xuất bản trên Revue des Deux Mondes, Le Figaro, Nouvelle Revue, Journal des Débats, Le Temps, v.v.

Là một tác giả xuất sắc, đam mê sân khấu cũng như truyện ngắn, thơ và tiểu thuyết, bà là một nhà văn thành công vào thời của mình. Cuốn tiểu thuyết Dosia của bà đã đoạt giải Montyon năm 1878. Cẩm nang hướng dẫn đạo đức và công dân cho các cô gái trẻ của bà đã được tái bản 28 lần từ năm 1882 đến 1891.
 
Nhà văn Guy de Maupassant đã nói về bà :

“Trong số các nữ văn sĩ ở Pháp, Henry Gréville là người có sách được xuất bản nhiều nhất. 
Đây trước hết là một người kể chuyện, một người kể chuyện duyên dáng và cảm động.
 Chúng tôi đọc truyện của bà với một niềm vui ngọt ngào; và khi đã đọc một trong những cuốn sách của bà, chúng tôi sẽ luôn vui thich tìm  đọc những cuốn khác. »
 
 Bà qua đời vì tắc nghẽn mạch khi đang điều trị tại phòng khám của bác sĩ Sollier ở Boulogne-Billancourt. Bà được chôn cất tại nghĩa trang Montmartre .
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lần này không có hy vọng nào cho ông nữa, đó là cú đột quỵ lần thứ ba. Đêm này qua đêm khác, tôi đi ngang qua ngôi nhà (lúc đó là ngày nghỉ) nhìn vào ô cửa sổ sáng đèn, và đêm này qua đêm khác, tôi thấy nó sáng cùng một cách, mờ nhạt, rầu rầu...
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió. Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?”
“Quê người trên đỉnh Trường sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” Lần đầu tiên tôi cảm nhận Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn ở một góc nhìn mới. Lòng tôi như đứa trẻ thơ được trở về trong vòng tay mẹ hiền sau bao năm lưu lạc. Trường Sơn trước mắt tôi thật thơ mộng, u trầm và hùng vĩ. Núi tiếp núi. Từng đàn cò trắng lượn bay giữa những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận, ngút ngàn. Dường như mây trời và khói núi quyện vào nhau để xoá nhoà đi ranh giới giữa mộng và thực. Theo dấu chân Người, tôi tìm về Trường Sơn. Để nhìn thẳng vào chân diện mục của Trường Sơn và cũng để “gởi một nỗi hờn thiên thu”.
Không biết vì sao tôi có cái máu thích tư tưởng triết lý từ hồi còn trẻ. Do vậy, tôi rất mê đọc sách triết, sách tư tưởng, và dĩ nhiên sách Phật. Cũng vì cái “nghiệp dĩ” ấy mà khi lần đầu tiên được theo Ôn Từ Quang (tức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ) vào tùng chúng an cư tại Viện Hải Đức, Nha Trang, vào mùa hè năm 1976, tôi thường vào thư viện để kiếm sách đọc.
Câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của thi hào Nguyễn Du, nhiều người từng nghe qua, nhưng có thể không rõ xuất xứ ở đâu. Đó là hai câu kết trong bài thơ thất ngôn bát cú “Độc Tiểu Thanh Ký” (Đọc Bút Ký Tiểu Thanh), trong “Thanh Hiên Thi Tập”...
Lần đầu tiên xảy ra vào mùa đông sau khi cô tròn mười sáu tuổi. Ngôn ngữ đã châm chích và giam cầm cô như quần áo làm từ hàng ngàn cây kim đột nhiên biến mất. Những từ ngữ vẫn đến được tai, nhưng giờ đây một lớp không khí dày đặc đệm khoảng không giữa ốc tai và não. Bị bao bọc trong im lặng mù sương, những ký ức về chiếc lưỡi và đôi môi đã từng sử dụng phát âm, về bàn tay đã nắm chặt cây bút chì, trở nên xa vời. Cô không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ nữa. Di chuyển, không cần ngôn ngữ và hiểu, không cần ngôn ngữ, như cô đã từng làm trước khi học nói - không, trước khi có được sự sống. Im lặng, hấp thụ dòng chảy thời gian như những quả bóng bông, bao bọc cơ thể cả bên ngoài lẫn bên trong.
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
Giải Nobel Văn học năm 2024 đã được trao cho Han Kang, một tác giả người Nam Hàn, vì "văn xuôi thơ mãnh liệt đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người". Han Kang sinh ra tại Gwangju, Nam Hàn, cô chuyển đến Seoul khi mới mười tuổi. Cô học văn học tại Đại học Yonsei. Các tác phẩm của cô đã giành được Giải thưởng Văn học Yi Sang, Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ ngày nay và Giải thưởng Tiểu thuyết Văn học Nam Hàn. The Vegetarian (Người Ăn Chay), tiểu thuyết đầu tiên của cô được dịch sang tiếng Anh, Portobello Books xuất bản năm 2015 và giành Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2016. Cô sống tại Seoul. “Trái Cây Của Vợ Tôi”, Han Kang viết câu chuyện này vào năm 1997, cũng là tiền thân trực tiếp cho cuốn tiểu thuyết The Vegetarian năm 2007 – trong cả hai tác phẩm, một cặp vợ chồng ở độ tuổi đầu ba mươi thấy cuộc sống vốn bình lặng bị xáo trộn khi người vợ biến dạng thân thể.
Nhà văn nữ Han Kang người Nam Hàn đã đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhờ “phong cách văn chương không chỉ đậm chất thơ mà còn sâu sắc, ý nghĩa, phản ánh những chấn thương lịch sử và thân phận mong manh của cuộc sống con người.” Ở tuổi 53, bà trở thành nữ nhà văn Nam Hàn đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời là nữ nhà văn thứ 18 trong tổng số 121 nhà văn đoạt giải thưởng danh giá này cho đến nay. Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Han Kang còn là một nhạc sĩ và có niềm đam mê với nghệ thuật thị giác (visual art).
Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư. Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn đoàn thể, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.