Hôm nay,  

Hồi Ức Khánh Trường

1/2/202500:00:00(View: 2840)
KT DK NC TDT
Triển lãm tranh Khánh Trường tại Việt Báo Gallery, tháng 10, năm 2018. Hình: Nhà thơ Trần Dạ Từ, nhà văn Nhã Ca, họa sĩ Khánh Trường, nhà văn Đỗ Kh.
 
Năm 1988, tại Nam Cali có cuộc bầu cử ban chấp hành lâm thời của Văn bút Việt nam Hải ngoại, nhà văn Nhật Tiến làm chủ tịch. Sau đó có các ban ngành này kia truyền thông, báo chí gì đó và tôi được chỉ định làm việc với Khánh Trường. Đó là lần đầu tôi gặp anh, 1 người điệu đà, mặc đồ trắng và quần có giây lưng, tuy dáng dấp khoan thai nhưng có cái gì đó dục giã giấu bên trong và nét bất bình loáng thoáng ở hàng râu mép.

Anh là 1 người dễ tính nhưng có những nổi giận không nhân nhượng. Đây là đức tính tôi ấn tượng nhất ở nơi anh. Thế giới của Khánh Trường có 2 loại, là con người và “bọn súc vật”. Khi nào rất là giận, anh nói thêm cho rõ rằng “bọn đó là súc vật chứ không phải con người”! Đây không chỉ cá nhân nào mà là một nhận định và 1 lựa chọn, ta không ở phía bọn súc vật được mà đành phải ở phía con người.

Đức tính này kèm theo sự ngang tàng đã khiến anh đeo đuổi và thành công với tạp chí “Hợp Lưu” vào 1 thời điểm khó khăn về đủ mặt, từ vật chất đến an ninh cá nhân. Cái can đảm không phải là trước vũ lực, (gần như ) ai cũng có thể banh ngực ra 1 phút nào đó trước họng súng chẳng hạn. Tôi nghĩ là nó phải âm ủ và nuôi dưỡng, bảo vệ nó từng ngày, đối ngay với người thân, đối ngay với bạn bè, đối ngay với đồng đội cũ. Đó mới là khó khăn, mỗi ngày 1 cái can đảm nhỏ, 1 nỗ lực vô danh nuôi bằng cách biết gìn giữ sự bất bình. Không biết bất bình, phi hảo hán.

Tôi nhớ 1 bận đi vào Phước Lộc Thọ (là trung tâm của phố Việt ở quận Cam), vào dạo lúc đầu thập niên 90. Ngày đó còn có các tổ chức hung hăng trong cộng đồng và chiều ngày hôm đó họ chặn cửa để quyên góp, bán báo bán cờ dưới dạng đe dọa ít nhiều hay áp đảo. Họ là trai tráng mặc đồng phục, vài mươi mạng và tôi theo Khánh Trường với Cao Xuân Huy vào đó là để đi ăn bánh cuốn phía bên trong thôi. Nếu đưa tôi tờ báo thì tôi sẽ cầm lấy, nếu bắt tôi góp tiền thì tôi sẽ trả lại và nói năng nhỏ nhẹ “Tôi không có tiền”. Đằng này họ đưa cho Khánh Trường và tôi thấy anh mặt mày tức giận, anh cầm vất luôn xuống đất. Anh Huy thì nhăn nhở cười theo cái kiểu của anh thường lệ, và tôi nghĩ là xô xát đánh nhau rồi và đánh nhau thì đành đánh nhau thôi chứ biết sao đây. Nhưng có lẽ 2 bạn đưa tờ báo đó nghĩ sao mà chỉ  nhìn chúng tôi đi qua không nói năng chi.

Khánh Trường bắt đầu bạo bệnh từ 20 năm nay rồi chứ không phải mới. Có lúc nghĩ là anh sắp đi và bàn giao Hợp Lưu sang cho Phùng Nguyễn. Anh Phùng thì ở xa, đâu đó tuốt phía sa mạc và hôm đó tôi hẹn anh đến bệnh viện thăm Khánh Trường. Phùng Nguyễn còn mang theo trong xe 3 cái máy vi tính tôi nhớ là IBM Thinkpad. Khi hỏi thì anh nói là máy mới dọn dẹp sạch sẽ, mang đi bán để giúp Khánh Trường lúc bệnh hoạn. Khánh Trường ở trong phòng nằm buồn so, dưới gối có cuốn Hợp Lưu chót lấy ra cầm lật lật. Nằm viện thì ai vui, tôi biết nói gì, tôi nói “Nhảy dù, cố gắng!” và Khánh Trường cười buồn.

Cái khoan thai trong dáng của Khánh Trường cũng là ở trước cái chết. Anh ra đi từ từ trong 20 năm qua và Phùng Nguyễn lại còn đi trước anh. Giờ này anh vẫn còn đu đưa và vật lộn. Tôi nghĩ anh ở lại là vì đời này còn súc vật làm anh giận chứ qua sông Mê thì chỉ còn con người và chuyện đó dễ rồi. Tôi lại nói “Nhảy dù, cố gắng!”.
 
KT 1
Ảnh: Nguyễn Bá Khanh, chụp mùa xuân 2024.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang. Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử.
Nguyễn Du là tác giả của “Truyện Kiều” và nhà văn người Đức Johann Wolfgang von Goethe là tác giả kịch thơ “Faust”. Nguyễn Du được người Việt kính trọng tôn xưng là "Đại thi hào" và được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới” vào năm 2013 cùng 107 danh nhân khác. Nếu người Việt tự hào về Nguyễn Du thì người Đức cũng rất tự hào về nhà văn lớn của họ là Goethe. Theo Viện Nghiên cứu xã hội và phân tích thống kê Đức (Forsa), Geothe được xếp đứng hàng đầu trong danh sách „Những người Đức vĩ đại nhất mọi thời đại“ [1]. Sau đó mới đến vị thủ tướng đầu tiên của Cộng Hòa Liên Bang Đức là Konrad Adenauer (1876-1967) đứng hạng nhì và đứng hạng thứ ba lại là nhà khoa học gia Albert Einstein (1879-1955), cha đẻ của Thuyết tương đối.
Với tài năng hội họa, văn, thơ, và nhất là tấm lòng và ý chí bền bỉ với văn học nghệ thuật, Khánh Trường đã chinh phục một số lượng độc giả và giới thưởng ngoạn nghệ thuật lớn, từ hải ngoại về đến trong nước, từ nhiều thập niên qua, và có lẽ Ông sẽ mãi được nhớ đến trong văn sử Việt là người khai phóng một nền văn học hậu chiến ở hải ngoại và trong nước qua tờ báo văn học Hợp Lưu. Sau ba cơn tai biến Ông đã phải mang nhiều bệnh tật, nhưng sự ra đi của ông vào cuối năm 29 tháng 12, 2024 vừa qua vẫn gây bàng hoàng đối với những người thân yêu và mến mộ ông. Nỗi niềm thương tiếc này được biểu hiện bằng đôi lời chia biệt với ông và gia đình từ khắp nơi. Việt Báo trích đăng lại.
Như anh có lần tâm sự, thủa 13, anh đã bỏ quê nhà Quảng Nam, lên Đà Lạt, sống đời lang bạt, ăn bờ ngủ bụi, thậm chí “biết tình yêu gái điếm” dù còn non choẹt. Rồi anh xuống Sài Gòn, không muốn tiếp tục làm du đãng, anh đăng lính, dù chưa đủ tuổi. Có sao đâu, chiến tranh đang lên cao điểm mà, quân đội cần lính, nhất là lính Dù, những người lỳ lợm, can đảm, tự nguyện. Những năm chiến trận, đúng châm ngôn “Nhẩy Dù cố gắng”, anh sống trọn với đồng đội, với màu cờ sắc áo. Bị thương nhiều lần, anh buộc phải giải ngũ. Đời sống dân sự chưa được bao lâu thì “xẩy đàn tan nghé”, ngày 30 Tháng Tư 75, anh bị “bên thắng cuộc” liệt vào hàng ngũ “bên thua cuộc”. Vì là cấp hạ sĩ quan, anh không chịu chung số phận như hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức, bị đầy đọa nhiều năm tháng trong các trại tù mà chế độ mới gọi bằng mỹ từ “cải tạo”. Nhưng anh vẫn bị nghi kỵ, bị phân biệt đối xử ngay chính trên quê hương mình.
Chúng tôi quen nhau bắt đầu bằng một… thùng sách...
Giữa mình và Khánh Trường có chút tình văn nghệ tuy thỉnh thoảng mới gặp nhau. Nay Khánh Trường vừa ra đi xin đăng lại một bài viết về Trăng Thiền cách đây cũng đã mươi năm nhân Khánh Trường triển lãm một loạt tranh mới chủ đề là Đáo Bỉ Ngạn và có gởi cho Nguyễn hình chụp một số bức để đưa lên Phố Văn. Xin mời bạn đọc theo dõi bài viết.
Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Trang sách cuối của Hợp Lưu bây giờ đã khép lại. Tay của bạn đã thả rơi ngòi bút và cọ màu. Bạn đã nằm xuống sau một đời lặn lội. Hãy gối đầu lên những kệ sách ký ức. Đã tới lúc bạn hãy buông xả hết, để tự thấy đời mình trôi theo dòng sông chữ nghĩa, nơi đã chép xuống những gì đẹp nhất của thế hệ chúng ta. Bạn hãy giữ lòng cho thật vui để ra đi. Cuộc đời luôn luôn là những bước ra đi. Bạn không có gì để nuối tiếc trong đời này. Bạn đã tự vắt kiệt máu trong tim ra để làm sơn cho tranh vẽ và để làm mực cho những trang báo. Nơi đó là ước mơ của yêu thương và hòa giải. Nơi đó là sự ngây thơ nghệ sĩ mà chúng ta đã đem tặng cho đời.
Khoảng thời gian bắt đầu vào đại học, ngoài những lúc phải học những bài sinh hóa khô khan, tôi tìm đến văn chương tiếng Việt qua các tạp chí như Văn Học, Văn, và Hợp Lưu. Khác với Văn và Văn Học vốn mang không khí “cổ điển”, Hợp Lưu, với chủ biên sáng lập là nhà văn Khánh Trường, bung mở một cánh cửa đón nhiều cây bút mang phong cách táo bạo, thể nghiệm, trong cả hai lãnh vực thơ và văn, đến từ trong và ngoài Việt Nam. Gặp nhiều chống đối vào những năm đầu vì có sự góp mặt của những nhà văn trong nước, nhưng Khánh Trường vẫn bất chấp, tiếp tục xây dựng Hợp Lưu thành một diễn đàn văn chương mở rộng vì “các thể chế chính trị rồi sẽ qua đi, nhưng văn học nghệ thuật sẽ còn tồn tại dài lâu, nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là phải tìm cách bảo tồn, xiển dương những giá trị kia, không phân biệt phe phái, chính kiến.” (trả lời phỏng vấn của Đỗ Lê Anh Đào trên damau.org, ngày 22 tháng 9, 2006).
Khu Nursing Home gồm bốn dãy nhà quây thành hình vuông. Mỗi dãy có tám phòng, cửa mở ra chái hiên rộng, lát gạch hoa có tam cấp dẫn vào mảnh vườn trồng nhiều cây trái nhiệt đới: mít, xoài, nhãn lồng, xen kẽ những loại cây và hoa đậm chất đông phương: tùng, liễu, mẫu đơn, phật quả, thiết mộc lan và hồ rộng, thiết kế mỹ thuật. Những con thác từ các mỏm đá cao đổ xuống tung bọt trắng xóa, đàn cá koi nhởn nhơ quanh các bụi thủy trúc, rải rác nhiều khóm liễu vươn ra từ bờ, sà thấp chạm mặt nước. Mùa hè, sáng, chiều, luôn có các lão niên ngồi trên những băng ghế đá, dưới các gốc cây phủ kín bóng mát bởi những tàn lá rộng, hóng gió, tán gẫu hoặc bày trò vui.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.