Hôm nay,  

Bồ-tát Quan Âm - Tín Ngưỡng & 50 Tượng Tuyến ở Nhật Bản

03/03/202511:35:00(Xem: 2841)
received_1157124338656281

Nhật Bản là một nước Phật giáo, mà cách đây một thời gian theo thống kê của Bộ Giáo dục Nhật, những người theo Phật giáo chiếm đại đa số và đúng theo lịch sử truyền bá và phát triển, Phật giáo đến nước nào thì mang sắc thái văn hóa của nước đó. Cho nên, Phật giáo khi vào Nhật Bản cũng mang một số sắc thái riêng. Nay có tác phẩm Bồ-tát Quan Âm - Tín Ngưỡng & 50 Tượng Tuyến ở Nhật Bản của nhà nghiên cứu Bùi Chí Trung, người đã sống và làm việc lâu năm tại quốc gia này sẽ cung cấp cho chúng ta một số thông tin quý báu về những nét rất riêng của Phật giáo Nhật Bản vừa nói.
 
Bồ-tát Quan Âm và tín ngưỡng Quan Âm xuất hiện rất sớm trong các văn bản Phật giáo Ấn Độ rồi sau đó lan truyền trở thành một đối tượng tín ngưỡng rất sâu đậm và rộng rãi trong những nước có tiếp thu Phật giáo như Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, v.v... Từ giữa thế kỷ XX, vị Bồ-tát này đã được giới nghiên cứu trên thế giới đặc biệt quan tâm và đã cung cấp cho chúng ta những hiểu biết tương đối chính xác về lịch sử hình thành và phát triển loại tín ngưỡng ấy trên thế giới. Cụ thể là thông qua công trình nghiên cứu của nhà nữ học giả Pháp Marie-Thérèse de Mallmann ta biết tại Ấn Độ vị Bồ-tát này về mặt đồ tượng được điêu khắc theo thể hình nam nhân. Trong khi đó, các nước tiếp thu tín ngưỡng Quan Âm lại phát triển đồ tượng chủ yếu có thể hình nữ. Ở Trung Quốc từ thế kỷ thứ III sau Tây lịch trong giai đoạn đầu đã phát triển mạnh tín ngưỡng Quan Âm, nhưng về mặt đồ tượng thì chưa rõ ràng lắm. Thậm chí, một số hình tượng lại truyền từ nước ta lên, mà tiêu biểu là trường hợp của Vương Diệm, sau này đã trở thành một nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng của văn học Trung Quốc. Vương Diệm gốc người Thái Nguyên, Trung Quốc, lúc nhỏ theo cha mẹ đến ở nước ta, rồi gia đình đến quy y với vị pháp sư tên Hiền và được vị sư này ban cho một tượng Quan Âm bằng vàng. Sau đó, Diệm và gia đình trở về Kiến Nghiệp, Trung Quốc, thì Diệm đã mang pho tượng theo để tiếp tục cúng dường. Điều đáng tiếc là bức tượng này không được mô tả chính xác về mặt hình thế, nên ta không biết tượng được đúc theo thể hình nam hay nữ. Dẫu thế, Vương Diệm sống ở nước ta vào nửa sau thế kỷ thứ V, tức khoảng niên hiệu Kiến Nguyên (457-483 sdl) của nhà Nam Tề.
 
Sự kiện này chứng tỏ tín ngưỡng Quan Âm xuất hiện tại nước ta cũng khá sớm không kém gì Trung Quốc. Về sau ở Việt Nam cũng như Trung Quốc đã xuất hiện những vị Quan Âm, mà về mặt đồ tượng thì mang thể hình hoàn toàn phụ nữ, mà đại diện là Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Tống Tử. Về Quan Âm Nam Hải, thì xuất xứ thường truy về Quan Âm tế độ bản nguyện chân kinh, mà bản in sớm nhất hiện biết là vào năm 1416, tức năm Vĩnh Lạc Bỉnh Thân của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong bài viết Khuyến phát bồ đề tâm văn in trong Khóa hư lục, vua Trần Thái Tông (1218-1277) đã nhắc đến tích "Diệu Thiện chẳng chọn Phò mã (nên) thành Phật chẳng ngờ". Điều này chứng tỏ Quan Âm tế độ bản nguyện chân kinh đã xuất hiện ở Việt Nam trước khi được truyền vào Trung Quốc như chúng tôi đã chỉ ra trong Toàn tập Trần Thái Tông xuất bản năm 2004. Không những thế, ngôi chùa Hương Sơn nơi thờ đức Quan Âm Nam Hải đứng trên núi Hương của Hà Tĩnh được xác định là một ngôi chùa xây dựng từ thời Trần của Việt Nam. Sự kiện này cho thấy truyện tích Nam Hải Quan Âm tỏ ra rất phổ biến trong quảng đại quần chúng Việt Nam. Đây cũng là thời điểm biển Nam Hải đã rộn rịp không chỉ những hoạt động quân sự nhằm bảo vệ biển đảo của tổ quốc, mà còn để chi viện, giúp đỡ những quốc gia bị đe dọa bởi quân Mông Cổ. Không những thế, biển Nam cũng rộn rịp các thương thuyền của những quốc gia phương Nam đến buôn bán. Cho nên, biển Nam ở đây phải được hiểu là vùng biển phía Nam của nước ta bao gồm cả vùng biển của các nước Indonesia, Philippines, Malaysia và các nước đi qua vùng biển ấy như Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Chúng ta cũng không loại trừ cảng Cửa Sót, tức là cảng Nam Giới vào thời Trần vẫn còn hoạt động. Chứng tích là sự tồn tại các vật liệu xây dựng thời Trần tại chùa Quỳnh Viên ở núi Mốc thuộc xã Thạch Hải, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Sự tồn tại của tín ngưỡng Quan Âm có thể là một sảng tạo của Phật giáo Việt Nam, mà sau đó được truyền qua Trung Quốc thông qua bản Quan Âm tế độ bản nguyện chân kinh. Điều này có thể được chứng thực bởi sự xuất hiện của 'Phổ Đà Lạc Độ Hải ở vùng biển Nam Hải của Nhật Bản là một thí dụ, mà tác giả Bùi Chí Trung đã trình bày cho chúng ta trong tác phẩm Bồ-tát Quan Âm - Tín Ngưỡng & 50 Tượng Tuyển ở Nhật Bản đã cho thấy.
 
Nói thẳng ra, một quốc gia khi tiếp thu Phật giáo đã có những cách hành xử của riêng mình, thể hiện quan điểm cũng như ước vọng của dân tộc mình khi vận dụng những cống hiến của Phật giáo cho đời sống cụ thể của người dân đáp ứng yêu cầu nguyện vọng của họ. Tác giả Bùi Chí Trung đã cung cấp cho chúng ta một số dữ liệu không chỉ để hiểu về tín ngưỡng Quan Âm tại Nhật Bản, mà từ Nhật Bản chúng ta hiểu thêm tín ngưỡng Quan Âm của dân tộc mình, mà chúng tôi xin ghi ra đây để cùng suy ngẫm và cảm ơn tác giả Bùi Chí Trung. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn và xin giới thiệu cùng bạn đọc.
 
(Bài viết trên trích Lời Nói Đầu của sách, do Giáo sư Lê Mạnh Thát viết).

Để biết thêm chi tiết, xin bấm vào đường dẫn sau:

Đăng ký Trà đàm 07 - TÍN NGƯỠNG QUAN ÂM Ở VIỆT NAM VÀ NHẬT BẢN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió. Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?”
“Quê người trên đỉnh Trường sơn Cho ta gởi một nỗi hờn thiên thu.” Lần đầu tiên tôi cảm nhận Tập thơ Giấc Mơ Trường Sơn ở một góc nhìn mới. Lòng tôi như đứa trẻ thơ được trở về trong vòng tay mẹ hiền sau bao năm lưu lạc. Trường Sơn trước mắt tôi thật thơ mộng, u trầm và hùng vĩ. Núi tiếp núi. Từng đàn cò trắng lượn bay giữa những cánh đồng lúa xanh trải dài bất tận, ngút ngàn. Dường như mây trời và khói núi quyện vào nhau để xoá nhoà đi ranh giới giữa mộng và thực. Theo dấu chân Người, tôi tìm về Trường Sơn. Để nhìn thẳng vào chân diện mục của Trường Sơn và cũng để “gởi một nỗi hờn thiên thu”.
Không biết vì sao tôi có cái máu thích tư tưởng triết lý từ hồi còn trẻ. Do vậy, tôi rất mê đọc sách triết, sách tư tưởng, và dĩ nhiên sách Phật. Cũng vì cái “nghiệp dĩ” ấy mà khi lần đầu tiên được theo Ôn Từ Quang (tức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Phúc Hộ) vào tùng chúng an cư tại Viện Hải Đức, Nha Trang, vào mùa hè năm 1976, tôi thường vào thư viện để kiếm sách đọc.
Câu thơ “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” của thi hào Nguyễn Du, nhiều người từng nghe qua, nhưng có thể không rõ xuất xứ ở đâu. Đó là hai câu kết trong bài thơ thất ngôn bát cú “Độc Tiểu Thanh Ký” (Đọc Bút Ký Tiểu Thanh), trong “Thanh Hiên Thi Tập”...
Lần đầu tiên xảy ra vào mùa đông sau khi cô tròn mười sáu tuổi. Ngôn ngữ đã châm chích và giam cầm cô như quần áo làm từ hàng ngàn cây kim đột nhiên biến mất. Những từ ngữ vẫn đến được tai, nhưng giờ đây một lớp không khí dày đặc đệm khoảng không giữa ốc tai và não. Bị bao bọc trong im lặng mù sương, những ký ức về chiếc lưỡi và đôi môi đã từng sử dụng phát âm, về bàn tay đã nắm chặt cây bút chì, trở nên xa vời. Cô không còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ nữa. Di chuyển, không cần ngôn ngữ và hiểu, không cần ngôn ngữ, như cô đã từng làm trước khi học nói - không, trước khi có được sự sống. Im lặng, hấp thụ dòng chảy thời gian như những quả bóng bông, bao bọc cơ thể cả bên ngoài lẫn bên trong.
Băng hình này thực hiện để cúng dường Tam Bảo. Nội dung dựa trên nhiều bản dịch khác nhau của Thầy Thích Minh Châu, Daw Mya Tin, Weragoda Sarada Thero, và nhiều Thầy trên Sutta Central và Access to Insight.
Giải Nobel Văn học năm 2024 đã được trao cho Han Kang, một tác giả người Nam Hàn, vì "văn xuôi thơ mãnh liệt đối mặt với những chấn thương lịch sử và phơi bày sự mong manh của cuộc sống con người". Han Kang sinh ra tại Gwangju, Nam Hàn, cô chuyển đến Seoul khi mới mười tuổi. Cô học văn học tại Đại học Yonsei. Các tác phẩm của cô đã giành được Giải thưởng Văn học Yi Sang, Giải thưởng Nghệ sĩ trẻ ngày nay và Giải thưởng Tiểu thuyết Văn học Nam Hàn. The Vegetarian (Người Ăn Chay), tiểu thuyết đầu tiên của cô được dịch sang tiếng Anh, Portobello Books xuất bản năm 2015 và giành Giải thưởng Man Booker Quốc tế năm 2016. Cô sống tại Seoul. “Trái Cây Của Vợ Tôi”, Han Kang viết câu chuyện này vào năm 1997, cũng là tiền thân trực tiếp cho cuốn tiểu thuyết The Vegetarian năm 2007 – trong cả hai tác phẩm, một cặp vợ chồng ở độ tuổi đầu ba mươi thấy cuộc sống vốn bình lặng bị xáo trộn khi người vợ biến dạng thân thể.
Nhà văn nữ Han Kang người Nam Hàn đã đoạt giải Nobel Văn học 2024 nhờ “phong cách văn chương không chỉ đậm chất thơ mà còn sâu sắc, ý nghĩa, phản ánh những chấn thương lịch sử và thân phận mong manh của cuộc sống con người.” Ở tuổi 53, bà trở thành nữ nhà văn Nam Hàn đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học, đồng thời là nữ nhà văn thứ 18 trong tổng số 121 nhà văn đoạt giải thưởng danh giá này cho đến nay. Bên cạnh sự nghiệp văn chương, Han Kang còn là một nhạc sĩ và có niềm đam mê với nghệ thuật thị giác (visual art).
Ba cuốn sách: Tiểu thuyết “Đường Về Thủy Phủ”; Tập truyện “Người Đàn Bà Khác”, và Tạp chí Ngôn Ngữ ấn bản đặc biệt Trịnh Y Thư, đã được ra mắt lần đầu tiên tại Coffee Factory, Westminster, Nam California vào lúc 4 giờ chiều Thứ Bảy, ngày 12 tháng 10 năm 2024, với sự tham dự của nhiều văn nghệ sĩ, các bằng hữu xa gần, các cơ quan truyền thông báo chí, và thân hữu của nhà văn Trịnh Y Thư. Mặc dù một buổi chiều Thứ Bảy với nhiều tổ chức sinh hoạt của các hội đoàn đoàn thể, các nhạc hội vận động tranh cử của các ứng cử viện gốc Việt đã tổ chức cùng một lúc, thế mà số người đến tham dự hơn 150 thân hữu và quan khách đã ngồi chật bên trong quán café, có lẽ vì Trịnh Y Thư là người đã sống và lăn lộn với nền văn học hải ngoại hơn mấy chục năm nay, cũng có lẽ vì Ông là một người bạn chân tình luôn hết lòng với bạn văn nghệ và được mọi người hết mực yêu mến.
Thế kỷ 19 có một sự cộng tác đặc biệt của một số người Minh Hương ở Chợ Lớn và các nhà khắc ván ở vùng Phật Trấn (Quảng Đông, Trung Quốc) để thực hiện khắc ván, in và phát hành sâu rộng những tác phẩm Việt Nam viết bằng chữ Nôm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.