
Hai người cha thời Đức Phật
Nguyên Giác
Lòng của người cha lúc nào cũng thương con. Ca dao thường nói rằng công cha như núi Thái Sơn. Nhìn như thế, là nhìn từ ngoài vào. Nhưng bản thân các người cha vẫn nghĩ rằng hy sinh cho con chỉ là chuyện bình thường, không có gì gọi là nặng nhọc như vác núi, gánh rừng. Trong Kinh Tạng Pali, có kể hai truyện về hai người cha thời Đức Phật. Qua hai truyện này, chúng ta sẽ thấy sức mạnh của Chánh pháp.
Truyện thứ nhất chúng ta kể nơi đây là người cha của Ni trưởng Anopamā. Thân phụ của Ni trưởng là ông Megha, một người có tài sản lớn. Khi là một thiếu nữ mới lớn, cô Anopamā được nhiều hoàng tử và công tử tới, xin cầu thân. Các chàng trai quý tộc sẵn sàng đem kho báu tới hiến tặng người cha để được rước cô Anopamā về làm vợ. Tuy nhiên, trong một cơ duyên được đảnh lễ Đức Phật, cô được ngài giảng cho một bài pháp. Và khi Đức Phật kết thúc bài pháp, cô Anopamā tức khắc chứng quả Bất Lai, tức là quả vị thứ ba. Trường hợp này rất là hy hữu, vì cô Anopamā lần đầu nghe pháp, chưa từng tu tập; như thế, chỉ có thể giải thích rằng tự thân cô đã tu nhiều kiếp trước, và lúc đó kể như gần sạch tham sân si.
Chuyện này, về sau, được Trưởng lão ni Anopamā kể lại trong bài thơ Thig 6.5. Và được nhà sư Bhikkhu Indacanda dịch ra tiếng Việt như sau:
“6.5. Anopamā
“Tôi đã được sanh ra trong gia đình cao quý, có nhiều của cải, có tài sản đồ sộ, được thành tựu về màu da và dáng vóc, con gái ruột của Megha.
Được những người con trai của các vị vua ao ước, được những người con trai của các nhà triệu phú khao khát, họ đã gởi sứ giả đến gặp cha tôi: ‘Hãy gả Anopamā cho chúng tôi.
Cô con gái Anopamā ấy của ông được cân nặng chừng nào, tôi sẽ trao vàng và ngọc tám lần so với chừng ấy.’
Tôi đây, sau khi lắng nghe đấng Toàn Giác, bậc Trưởng Thượng của thế gian, đấng Vô Thượng, tôi đã đảnh lễ hai bàn chân của Ngài rồi đã ngồi xuống một bên.
Ngài Gotama ấy, vì lòng bi mẫn, đã thuyết giảng Giáo Pháp cho tôi. Ngồi ở tại chỗ ấy, tôi đã chạm đến quả vị thứ ba.
Sau đó, tôi đã cắt tóc, tôi đã xuất gia sống đời không nhà. Hôm nay, đối với tôi là đêm thứ bảy, kể từ lúc ấy tham ái đã được làm khô héo.”
Trưởng lão ni Anopamā đã nói những lời kệ như thế.”
Truyện thứ nhì là về một người cha: Long vương, tức là Vua rồng. Truyện này là từ Kinh Pháp Cú bài kệ 182. Chuyện này là về Vua rồng Erakapatta.
Khi trú ngụ gần Baranasi, Đức Phật đã đọc Bài kệ 182 của Kinh Pháp Cú, liên hệ đến Erakapatta, vua của loài rồng.
Ngày xưa có một vị vua rồng tên là Erakapatta. Trong một kiếp trước của mình vào thời Đức Phật Ca Diếp, ông đã là một nhà sư trong một thời gian dài. Vì lo lắng về một tội nhỏ mà ông đã phạm trong thời gian đó, ông đã tái sinh thành một con rồng. Là một con rồng, ông đã chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật. Erakapatta có một cô con gái rất xinh đẹp, và ông đã sử dụng cô như một phương tiện để tìm kiếm Đức Phật. Ông cho biết bất kỳ ai có thể trả lời các câu hỏi của cô đều có thể lấy cô làm vợ. Hai lần mỗi tháng, Erakapatta bắt cô nhảy múa ngoài trời và hát lên những câu hỏi của mình. Nhiều người cầu hôn đã đến để trả lời các câu hỏi của cô với hy vọng lấy cô, nhưng không ai có thể đưa ra câu trả lời đúng.
Một ngày nọ, Đức Phật nhìn thấy một thanh niên tên là Uttara trong linh ảnh. Ngài cũng biết rằng chàng thanh niên sẽ đạt được Quả Tu Đà Hoàn liên quan đến những câu hỏi do con gái của Vua rồng Erakapatta đặt ra. Lúc đó, chàng thanh niên đã trên đường đến gặp con gái của Erakapatta. Đức Phật đã ngăn chàng lại và dạy chàng cách trả lời những câu hỏi. Trong khi chàng đang được dạy, Uttara đã đạt được Quả Tu Đà Hoàn. Bây giờ vì Uttara đã đạt được Quả Tu Đà Hoàn, chàng không còn muốn kết hôn với cô công chúa rồng nữa. Tuy nhiên, Uttara vẫn đi trả lời những câu hỏi vì lợi ích của nhiều chúng sinh khác.
Bốn câu hỏi nêu ra là:
1. Ai là người cai trị?
2. Người bị sương mù của ô nhiễm đạo đức bao trùm có được gọi là người cai trị không?
3. Người cai trị nào thoát khỏi những ô nhiễm đạo đức?
4. Người như thế nào bị gọi là kẻ ngu?
Câu trả lời cho những câu hỏi trên là:
1. Người kiểm soát được sáu căn là người cai trị.
2. Người bị sương mù của ô nhiễm đạo đức bao phủ thì không được gọi là người cai trị; người xa lìa khỏi tham ái được gọi là người cai trị.
3. Người cai trị thoát khỏi tham ái thì thoát khỏi các ô nhiễm đạo đức.
4. Người khao khát các thú vui nhục dục bị gọi là kẻ ngu.
Sau khi có được câu trả lời đúng cho những câu hỏi trên, công chúa Long nữ đã hát lên những câu hỏi liên quan đến lũ lụt của ham muốn nhục dục, của sự tái sinh, của tà giáo và của sự vô minh, và cách để vượt qua chúng. Chàng trai Uttara đã trả lời những câu hỏi này theo lời dạy của Đức Phật.
Khi Vua rồng Erakapatta nghe những câu trả lời này, ông biết rằng một vị Phật đã xuất hiện trên thế gian này. Vì vậy, ông đã yêu cầu chàng trai Uttara đưa ông đến gặp Đức Phật. Khi nhìn thấy Đức Phật, Erakapatta kể với Đức Phật rằng ông đã từng là một nhà sư vào thời Đức Phật Ca Diếp, rằng ông đã vô tình làm gãy một ngọn cỏ khi đang đi thuyền, và rằng ông đã lo lắng về tội nhỏ đó vì đã không làm hành động giải tội như đã quy định, và cuối cùng là ông đã tái sinh thành một con rồng như thế nào. Sau khi nghe ông kể, Đức Phật đã nói với ông rằng thật khó để được sinh ra trong thế giới loài người, và khó được sinh ra trong thời kỳ Đức Phật xuất hiện hoặc trong thời gian còn lưu truyền Giáo lý của các vị Phật.
Sau đó, Đức Phật đã nói bài kệ như sau:
Bài kệ 182: Khó sinh được làm người; khó khăn là cuộc sống của phàm nhân; khó có được cơ hội để nghe Phật pháp; khó có một vị Phật xuất hiện.
Bài thuyết pháp trên đã mang lại lợi ích cho rất nhiều chúng sinh. Vua rồng Erakapatta là một loài vật nên không thể đạt được Quả Tu Đà Hoàn ngay tại đó.
Bài kệ này được Thầy Minh Châu dịch như sau.
182. "Khó thay, được làm người,
Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp,
Khó thay, Phật ra đời!"
Dựa theo bài Kệ này, tất cả chúng ta đều có may mắn hơn rất nhiều chúng sinh khác: sinh làm người, và nghe Phật Pháp. Tất cả những người cha trên cõi này đều muốn để lại gia sản quý giá nhất cho con mình: trong đó, không có kho tàng nào quý giá hơn Phật pháp.
Hôm nay, bài này được viết trong Ngày Lễ Cha, để mời gọi tất cả những người cha hãy khuyên nhủ con mình tin theo Chánh pháp, dùng thân giáo để hướng dẫn con mình sống theo Chánh pháp, và hãy mượn các phương tiện truyền thông mang ngọn đèn Chánh pháp tới rọi sáng tất cả những nơi tăm tối trong đời này. Hạnh phúc là những người cha biết tìm ra Phật pháp, tài sản quý nhất trong cõi này, để trao lại cho con mình. Cũng y hệt như ông trưởng giả trong Kinh Pháp Hoa, giấu viên ngọc trong góc áo của cậu con trai bụi đời.
Và cũng hạnh phúc là những người con nhận ra rằng cha mình đã dạy cho con từ những ngày thơ ấu về niềm tin Tam Bảo, đã dạy cho con biết tin sâu vào nhân quả để không bao giờ dám làm ác, đã dạy cho con biết từ bi với người và yêu thương với đời, và đã dạy chữ cho con bằng cách đánh vần theo những dòng kinh để không bao giờ trôi lạc trong cõi này.
THAM KHẢO:
. Trưởng Lão Ni Kệ, Thig 6.5. Bản Việt dịch Bhikkhu Indacanda:
https://suttacentral.net/thig6.5/vi/indacanda
. Kinh Pháp Cú, bài Kệ 182:
https://www.tipitaka.net/tipitaka/dhp/verseload.php?verse=182
. Kinh Pháp Cú, bản dịch của Thầy Minh Châu:
https://thuvienhoasen.org/p15a7962/pham-11-20