Hôm nay,  

Song Ngữ: Vô Tâm Là Đạo: Kinh Bahiya

10/12/202409:28:00(Xem: 3556)
VÔ TÂM LÀ ĐẠO: KINH BAHIYA

Thiền Tông dạy rằng người nào sống với Vô tâm là giải thoát. Trần Nhân Tông, vị Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 13, từng viết rằng khi gặp cảnh, giữ được vô tâm, thì không cần hỏi tới Thiền nữa. Đức Phật trước đó đã dạy pháp Vô tâm trong Kinh Phật Tự Thuyết Ud 1.10. Bài này sẽ viết theo nhiều bản Anh dịch trên Sutta Central.

Một đạo sĩ tên là Bahiya cư trú ở thị trấn Supparaka. Bahiya được cư dân tôn kính, cúng dường y phụ, nhà ở và nhiều thứ. Bahiya tự tin rằng đã chứng quả A la hán, hoặc sắp thành A la hán. Một vị cõi trời, kiếp trước từng là người thân của Bahiya, muốn điều tốt lành cho Bahiya, nên hiện ra, nói với Bahiya rằng Bahiya chưa phải là A la hán, và cũng chưa tu đúng con đường để trở thành A la hán.

Bahiya nói, vậy thì ai đang là A la hán, hoặc đã bước vào con đường trở thành một vị A-la-hán.

Vị cõi trời nói rằng Đức Phật, đang nơi thành Xá Vệ ở phía Bắc, là một vị A la hán và đang dạy pháp để trở thành một bậc A la hán.

Bahiya rời thị trấn Supparaka, đi khẩn cấp tới thành Xá Vệ, vào vườn Cấp Cô Độc, gặp một số nhà sư đang thiền hành ngoài trời. Bahiya hỏi, xin gặp Đức Phật, và được cho biết rằng Đức Phật đang đi khất thực.

Bahiya vào thành Xá Vệ, thấy Đức Phật đang đi khất thực, vẻ ngoài thanh thản, tĩnh lặng. Bahiya tới gần, quỳ lạy xuống đất, đầu chạm chân Đức Phật và xin được học Pháp.

Đức Phật trả lời Bahiya rằng chưa phải lúc, vì Phật đang vào nhà dân để khất thực.

Bahiya nói rằng vô thường nhanh chóng, chưa biết thọ mạng còn sống bao lâu, nền cần học Pháp khẩn cấp.

Lần thứ nhì, Đức Phật trả lời Bahiya rằng chưa phải lúc, vì Phật đang vào nhà dân để khất thực.

Lần thứ ba, Bahiya nói rằng chưa biết thọ mạng còn sống bao lâu, nền cần học Pháp khẩn cấp.

Đức Phật trả lời Bahiya, vậy thì phải tự rèn luyện như sau:

Này Bahiya, trong cái được thấy chỉ có cái được thấy, trong cái được nghe chỉ có cái được nghe, trong cái được cảm thọ chỉ có cái được cảm thọ, trong cái được thức tri chỉ có cái được thức tri. Do đó, Bahiya, ông sẽ không ở với cái đó; và vì, Bahiya, ông sẽ không ở với cái đó, do đó, Bahiya, ông sẽ không ở trong cái đó; và vì, Bahiya, ông sẽ không ở trong cái đó, do đó, Bahiya, ông sẽ không bị dính mắc ở nơi đây hay ở kiếp sau, hay ở giữa hai cái đó. Chỉ như thế là chấm dứt đau khổ.
 
Khi nghe lời dạy ngắn gọn này, Bahiya lập tức giải thoát khỏi các lậu hoặc bằng cách không dính mắc. Không lâu sau khi Đức Phật rời đi, một con bò con đã tông vào Bahiya, và giết chết Bahiya.
 
Khi Đức Phật khất thực xong, quay lại, thấy Bahiya đã chết. Đức Phật yêu cầu các nhà sư đặt xác Bahiya lên chết, đốt và dựng tượng đài, vì đó là bạn đồng tu của các sư.
 
Các nhà sư làm xong, hỏi Đức Phật rằng đời sau của Bahiya ở đâu, là gì. Đức Phật đáp rằng Bahiya đã thực hành đúng Pháp và đã vào Niết bàn tối hậu.
 
Sau đó, Đức Phật đọc bài kệ:
Nơi nào nước, đất, lửa và gió không có chỗ đứng,
Nơi nào các vì sao không chiếu sáng, và mặt trời không có ánh sáng,
Nơi nào mặt trăng không tỏa sáng, và bóng tối không thể tìm thấy,
Khi một người tự mình biết điều này – một người thánh thiện có trí tuệ thực sự,
Khi đó, người ấy được giải thoát khỏi cả hình tướng và vô tướng, xa lìa cả khoái lạc và đau khổ.
 
Video dài 4:24 phút:

https://youtu.be/lf-o7TTfmRY
   
.... o ....
 
NO-MIND IS THE WAY: BAHIYA SUTTA

Zen teaches that those who live with No-mind are liberated. Tran Nhan Tong, a renowned Vietnamese Zen master from the 13th century, once wrote that when encountering any phenomenon, if one can maintain No-mind, there is no need to inquire further about Zen. The Buddha previously taught the Dharma of No-mind in the Udana Sutra 1.10. This article will draw upon various English translations available on Sutta Central.


A hermit named Bahiya lived in the town of Supparaka. The townspeople revered Bahiya, offering him robes, a house, and many other gifts. Bahiya was confident that he had attained Arahantship or was on the path to becoming an Arahant. However, a deva, who had been a relative of Bahiya in a previous life, appeared to him and conveyed that he was neither an Arahant nor on the correct path to achieving Arahantship.
 
Bahiya stated that he was an Arahant or had embarked on the path to becoming one. The deva responded that the Buddha, who resided in the northern city of Savatthi, was indeed an Arahant and was teaching the Dhamma to help his disciples attain Arahantship.
 
Bahiya left the town of Supparaka, hurried to Savatthi, entered Anathapindika's garden, and encountered some monks engaged in walking meditation outdoors. Bahiya requested to see the Buddha but was informed that the Buddha was out on his alms round.
 
Bahiya entered Savatthi and saw the Buddha on his alms round, appearing serene and calm. Bahiya approached, prostrated himself on the ground, touched his head to the Buddha's feet, and requested to learn the Dhamma.
 
The Buddha replied to Bahiya that it was not yet the right time, as he was going into people's homes to beg for alms.
 
Bahiya stated that impermanence is swift, and since he did not know how long he would live, he felt an urgent need to learn the Dhamma.

The second time, the Buddha responded to Bahiya that it was not yet the appropriate moment, as he was going to people's homes to beg for alms.

The third time, Bahiya expressed that he did not know how long he would live, so he urgently needed to learn the Dhamma.

The Buddha advised Bahiya to train himself in the following manner.
 
"And since for you, Bahiya, in what is seen there will be only what is seen, in what is heard there will be only what is heard, in what is sensed there will be only what is sensed, in what is cognized there will be only what is cognized, therefore, Bahiya, you will not be with that; and since, Bahiya, you will not be with that, therefore, Bahiya, you will not be in that; and since, Bahiya, you will not be in that, therefore, Bahiya, you will not be here or hereafter or in between the two—just this is the end of suffering."
 
Upon hearing this brief teaching, Bahiya was immediately liberated from his defilements through non-attachment. Shortly after the Buddha departed, a young cow struck Bahiya, resulting in his death.
 
When the Buddha returned from his alms round, he discovered that Bahiya had passed away. The Buddha instructed the monks to place Bahiya's body on the ground, burn it, and erect a monument in his honor, as he was their fellow monk.
 
When the monks had finished, they asked the Buddha about Bahiya's next life and its destination. The Buddha replied that Bahiya had practiced the Dhamma correctly and had attained final Nirvana.
 
Then the Buddha recited the following verse:
Where water, earth, fire, and wind have no place,
Where the stars do not shine and the sun provides no light,
Where the moon does not shine and darkness cannot be found,
When one experiences this firsthand—a holy person possessing true wisdom—
Then one is liberated from both form and formlessness, transcending both pleasure and pain.
 
Video, 4:44 minutes long:

https://youtu.be/p4x9fLmm1VU

Reference:
https://suttacentral.net/ud1.10/en/sujato
https://suttacentral.net/ud1.10/en/anandajoti



.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
17/10/202511:34:00
J281. Abbhantara Jātaka -- Món Cúng Dường Nước Xoài Ép Tóm tắt: Mẹ của Rahula (La Hầu La) ngã bệnh sau khi xuất gia. Ngài La Hầu La hỏi nên làm gì, và bà xin nước ép xoài. Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) liền mang nước ép đến, và bà đã khỏi bệnh. Đức Phật kể một câu chuyện về một hoàng hậu xưa kia muốn có một quả "xoài giữa" và một con vẹt trung thành đã tìm được một quả cho bà.
15/10/202510:57:00
J271. Udapana-Dusaka Jātaka -- Chó rừng và cái giếng linh thiêng Tóm tắt: Một con chó rừng làm bẩn giếng nước nó uống và bị các sa di đuổi đi. Đức Phật kể lại một câu chuyện tương tự đã xảy ra trong một kiếp trước và Ngài đã khiển trách con chó rừng khi nó thú nhận rằng tổ tiên của nó đã từng hành xử như vậy.
09/10/202512:44:00
J261. Paduma Jātaka -- Câu chuyện về cây của Ananda và người nói năng thông minh Tóm tắt: Trưởng lão Ananda giúp một số nhà sư hái hoa sen để cúng dường cây Bồ Đề tại Sāvatthi. Đức Phật sau đó kể lại câu chuyện về một số người đã cố gắng lừa gạt người trông coi ao sen nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, người nói thật đã được thưởng hoa.
07/10/202507:40:00
J251. Samkappa Jātaka -- Câu chuyện về vị sư si tình Tóm tắt: Một vị sư, khi nhìn thấy một người phụ nữ, đã trở nên say mê, muốn rời cuộc sống tu hành của mình. Đức Phật kể lại câu chuyện về một vị đạo sĩ thánh thiện, người đã bị cám dỗ và mất hết thần thông sau khi nhìn thấy hoàng hậu khỏa thân một ngày nọ. Vị đạo sĩ sau đó đã rời khỏi khu vườn của nhà vua và trở về dãy Himalaya, nơi ông đã lấy lại được thần thông.
05/10/202506:43:00
J241. Sabbadatha Jātaka -- Chó Rừng Kiêu Ngạo và Câu Thần Chú Quyền Năng Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa đã giành được danh tiếng và sự ủng hộ, nhưng không thể duy trì được. Đức Phật kể câu chuyện về một con chó rừng học được thần chú và chế ngự được muôn loài, nhưng lại bị chính lòng kiêu ngạo của hắn lừa gạt, khiến hắn bị diệt vong.
03/10/202506:44:00
J231. Upahana Jātaka -- Người Dạy Voi và Kẻ Đệ Tử Kiêu Hãnh Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa từ bỏ Đức Phật và trở thành kẻ thù của Ngài, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Đức Phật kể một câu chuyện về một người huấn luyện voi và người học việc của ông, trong đó người học việc lầm tưởng mình ngang hàng với người huấn luyện voi cho đến khi nhà vua nhận ra khả năng kém hơn của kẻ học việc.
01/10/202510:34:00
J221. Kasava Jātaka -- Chiếc Y và Con Voi Tóm tắt: Cư sĩ tụ tập và dâng y cho Đề Bà Đạt Đa. Nghe vậy, Đức Phật kể câu chuyện về một người thợ săn cải trang thành một vị Độc Giác Phật để săn voi, và Bồ Tát đã khiển trách anh ta vì đã làm mất phẩm giá y.
28/09/202519:30:00
J211. Somadatta Jātaka -- Người đàn ông nhút nhát và con trâu làm quà tặng Tóm tắt: Một vị sư khó có thể nói trước mặt hai hoặc ba người khác vì quá lo lắng. Đức Phật kể câu chuyện về một Bà-la-môn thời xưa đã dành cả năm trời để học thuộc một bài kệ nhưng lại quá lo lắng đến nỗi khi đọc cho vua nghe, ông đã đảo ngược ý nghĩa của bài kệ.
26/09/202507:47:00
J201. Bandhanagara Jātaka -- Những Xiềng Xích Mạnh Nhất Tóm tắt: Một số nhà sư quan sát tù nhân bị trói chặt trong tù và hỏi Đức Phật về xiềng xích. Đức Phật giải thích rằng đây không phải là những xiềng xích mạnh nhất; sự luyến ái gia đình và dục vọng còn mạnh hơn. Ngài kể thêm rằng, trong quá khứ, một số người đã thành công trong việc phá vỡ những xiềng xích này và chia sẻ một câu chuyện về một kiếp trước của Ngài.
24/09/202517:19:00
J191. Ruhaka Jātaka -- Vị Tăng Không Thể Buông Bỏ Tóm tắt: Một vị sư xuất gia sau khi rời gia đình, dần dần lại rơi vào vòng kiểm soát của vợ cũ. Đức Phật kể câu chuyện về một vị Bà-la-môn bị vợ mình làm trò hề, bắt ông phải ăn mặc và hành xử như một con ngựa. Xấu hổ trước mặt nhà vua, ông đuổi bà đi và cưới một người vợ mới.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.