Hôm nay,  

Bilingual: Cao Huy Thuần: Chia tay mà không biệt ly // Cao Huy Thuần: Farewell without separation

05/01/202509:22:00(Xem: 3651)
blank

Cao Huy Thuần: Chia tay mà không biệt ly
 

Đỗ Hồng Ngọc
 

Khi anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay…  tôi nghĩ: chắc là “Im Lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly”…
 

Nhưng đâu là cách chia tay mà không biệt ly? Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (Lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha. Anh “phát hiện” một điều thú vị: người Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng, CHT).
 

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.
 

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

 

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”
 

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng, CHT).
 

Cao Huy Thuần nói: “chúng chẳng có cả khái niệm…”. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”. Thong dong. Tự tại.
 

Descartes nói “Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”. Ta cũng có thể bắt chước nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn tồn tại đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai, Tathagata garbha) đó chứ!
 

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái “vô tướng” – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà chút vậy thôi.
 

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay.

Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

.... o ....
 

Cao Huy Thuần: Farewell without separation
 

By Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác
 

When Mr. Cao Huy Thuần sent me the book, “Silence as a Word of Farewell,” I initially thought it must be “Silent Sigh.” “I am listening; I am listening to the silence of my life” (Trịnh Công Sơn). However, that is not the case. Cao Huy Thuần explores the theme of “farewell without separation.”


 

But how can one bid farewell without experiencing separation? Cao Huy Thuần referenced the poem Feuille morte (Dead Leaves) by Hermann Hesse, the author of the novel Siddhartha. He discovered something interesting: Vietnamese people do not refer to "dead leaves" but instead use the terms "dry leaves" and "fallen leaves." Vietnamese people say "rake fallen leaves," "rake dry leaves," but they never say "rake dead leaves," unlike their French and German counterparts. Because leaves never die. When dry leaves fall, they regenerate into buds and young leaves (Silence, CHT).
 

In the poem Song of Two Snails Attending a Funeral by Jacques Prévert, two snails on their way to a dead leaf's funeral reveal the truth.
 

Two snails attended the

funeral of a deceased leaf.

Their shells were both black,

and their horns were white.

Regrettably, spring had already

sprung by the time they arrived.

All the dead leaves

had come back to life.

The two snails returned,

overwhelmed with emotions,

their hearts brimming with joy

and boundless happiness.
 

Oh, how could the two snails, attending the funeral of a dead leaf in the midst of autumn, be filled with joy and happiness? Because they were snails. They moved as slowly as snails do! They crawled throughout the winter, and by the time they arrived, spring had already arrived! "All the dead leaves / had come back to life."
 

Saying goodbye to autumn, we see spring. Saying goodbye to death, we meet life. Saying goodbye to gloom, we encounter excitement. Two snails bid farewell to falling leaves, unaware of what parting truly means! (Silence, CHT).
 

Cao Huy Thuần stated, “They don’t even have concepts…” Of course, he is referring to the Diamond Sutra! When we learn to live “free from concepts” and no longer cling to them, we find that “wisdom neither obtains existence nor non-existence.” This state is leisurely and free.
 

Descartes famously stated, “Je pense, donc je suis—I think, therefore I am.” We might also say, “I breathe, therefore I am.” This implies that if I do not breathe, I do not exist. However, even though I didn't breathe when I was in my mother's womb, I was still present. From this, we can deduce that when I… stopped breathing, I still existed—why not? At that moment, I returned to my mother’s womb (the womb of Tathagata, Tathagata garbha)!
 

Dear Brother Cao Huy Thuần, if we can occasionally enter the Samadhi of Samantabhadra and dwell in the Tathagatagarbha, we can merge with the formless and, at times, suddenly manifest a form to experience a bit of joy in the realm of Samsara.
 

When a bird flies, it doesn't need to understand what the sky is or where its limits lie. It simply takes to the air. In this boundless expanse, Cao Huy Thuan is soaring.
 

This is the flight path of happiness that sparkles with golden rays!

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
17/10/202511:34:00
J281. Abbhantara Jātaka -- Món Cúng Dường Nước Xoài Ép Tóm tắt: Mẹ của Rahula (La Hầu La) ngã bệnh sau khi xuất gia. Ngài La Hầu La hỏi nên làm gì, và bà xin nước ép xoài. Trưởng lão Sāriputta (Xá Lợi Phất) liền mang nước ép đến, và bà đã khỏi bệnh. Đức Phật kể một câu chuyện về một hoàng hậu xưa kia muốn có một quả "xoài giữa" và một con vẹt trung thành đã tìm được một quả cho bà.
15/10/202510:57:00
J271. Udapana-Dusaka Jātaka -- Chó rừng và cái giếng linh thiêng Tóm tắt: Một con chó rừng làm bẩn giếng nước nó uống và bị các sa di đuổi đi. Đức Phật kể lại một câu chuyện tương tự đã xảy ra trong một kiếp trước và Ngài đã khiển trách con chó rừng khi nó thú nhận rằng tổ tiên của nó đã từng hành xử như vậy.
09/10/202512:44:00
J261. Paduma Jātaka -- Câu chuyện về cây của Ananda và người nói năng thông minh Tóm tắt: Trưởng lão Ananda giúp một số nhà sư hái hoa sen để cúng dường cây Bồ Đề tại Sāvatthi. Đức Phật sau đó kể lại câu chuyện về một số người đã cố gắng lừa gạt người trông coi ao sen nhưng bị từ chối. Tuy nhiên, người nói thật đã được thưởng hoa.
07/10/202507:40:00
J251. Samkappa Jātaka -- Câu chuyện về vị sư si tình Tóm tắt: Một vị sư, khi nhìn thấy một người phụ nữ, đã trở nên say mê, muốn rời cuộc sống tu hành của mình. Đức Phật kể lại câu chuyện về một vị đạo sĩ thánh thiện, người đã bị cám dỗ và mất hết thần thông sau khi nhìn thấy hoàng hậu khỏa thân một ngày nọ. Vị đạo sĩ sau đó đã rời khỏi khu vườn của nhà vua và trở về dãy Himalaya, nơi ông đã lấy lại được thần thông.
05/10/202506:43:00
J241. Sabbadatha Jātaka -- Chó Rừng Kiêu Ngạo và Câu Thần Chú Quyền Năng Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa đã giành được danh tiếng và sự ủng hộ, nhưng không thể duy trì được. Đức Phật kể câu chuyện về một con chó rừng học được thần chú và chế ngự được muôn loài, nhưng lại bị chính lòng kiêu ngạo của hắn lừa gạt, khiến hắn bị diệt vong.
03/10/202506:44:00
J231. Upahana Jātaka -- Người Dạy Voi và Kẻ Đệ Tử Kiêu Hãnh Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa từ bỏ Đức Phật và trở thành kẻ thù của Ngài, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của chính mình. Đức Phật kể một câu chuyện về một người huấn luyện voi và người học việc của ông, trong đó người học việc lầm tưởng mình ngang hàng với người huấn luyện voi cho đến khi nhà vua nhận ra khả năng kém hơn của kẻ học việc.
01/10/202510:34:00
J221. Kasava Jātaka -- Chiếc Y và Con Voi Tóm tắt: Cư sĩ tụ tập và dâng y cho Đề Bà Đạt Đa. Nghe vậy, Đức Phật kể câu chuyện về một người thợ săn cải trang thành một vị Độc Giác Phật để săn voi, và Bồ Tát đã khiển trách anh ta vì đã làm mất phẩm giá y.
28/09/202519:30:00
J211. Somadatta Jātaka -- Người đàn ông nhút nhát và con trâu làm quà tặng Tóm tắt: Một vị sư khó có thể nói trước mặt hai hoặc ba người khác vì quá lo lắng. Đức Phật kể câu chuyện về một Bà-la-môn thời xưa đã dành cả năm trời để học thuộc một bài kệ nhưng lại quá lo lắng đến nỗi khi đọc cho vua nghe, ông đã đảo ngược ý nghĩa của bài kệ.
26/09/202507:47:00
J201. Bandhanagara Jātaka -- Những Xiềng Xích Mạnh Nhất Tóm tắt: Một số nhà sư quan sát tù nhân bị trói chặt trong tù và hỏi Đức Phật về xiềng xích. Đức Phật giải thích rằng đây không phải là những xiềng xích mạnh nhất; sự luyến ái gia đình và dục vọng còn mạnh hơn. Ngài kể thêm rằng, trong quá khứ, một số người đã thành công trong việc phá vỡ những xiềng xích này và chia sẻ một câu chuyện về một kiếp trước của Ngài.
24/09/202517:19:00
J191. Ruhaka Jātaka -- Vị Tăng Không Thể Buông Bỏ Tóm tắt: Một vị sư xuất gia sau khi rời gia đình, dần dần lại rơi vào vòng kiểm soát của vợ cũ. Đức Phật kể câu chuyện về một vị Bà-la-môn bị vợ mình làm trò hề, bắt ông phải ăn mặc và hành xử như một con ngựa. Xấu hổ trước mặt nhà vua, ông đuổi bà đi và cưới một người vợ mới.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.