Hôm nay,  

Bilingual: Cao Huy Thuần: Chia tay mà không biệt ly // Cao Huy Thuần: Farewell without separation

05/01/202509:22:00(Xem: 3605)
blank

Cao Huy Thuần: Chia tay mà không biệt ly
 

Đỗ Hồng Ngọc
 

Khi anh Cao Huy Thuần gởi tôi tập Im Lặng, như lời chia tay…  tôi nghĩ: chắc là “Im Lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly”…
 

Nhưng đâu là cách chia tay mà không biệt ly? Cao Huy Thuần dẫn bài thơ Feuille morte (Lá chết) của Hermann Hess, tác giả Siddhartha. Anh “phát hiện” một điều thú vị: người Việt không ai nói “lá chết” mà nói “lá khô”, “lá rụng”. Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì, lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp lá non (Im Lặng, CHT).
 

“Chân lý” ấy do hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa là: “Bài ca hai con sên đi dự đám tang”.
 

Hai con sên đi đưa

Đám tang chiếc lá chết

Hai cái vỏ thì đen

Hai sừng băng trắng hết…

Hỡi ôi khi chúng đến

Mùa xuân đã đến rồi

Bao nhiêu lá chết xong

Tất cả đều lại sống

Hai chú sên trở về

Với xiết bao cảm xúc

Lòng tràn ngập hân hoan

Và vô biên hạnh phúc…

 

Ôi, làm sao hai chú sên đi dự đám tang chiếc lá chết buồn xo giữa mùa thu… mà nay lòng lại tràn đầy hân hoan, hạnh phúc? Ấy bởi vì chúng là sên. Chúng “bò như sên”! Bò hết cả mùa đông, chưa kịp đến nơi mà xuân đã về rồi! “Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống…”
 

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp cái sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im Lặng, CHT).
 

Cao Huy Thuần nói: “chúng chẳng có cả khái niệm…”. Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang! Khi ta mà biết sống “ly niệm”, khi ta không còn bám chấp vào khái niệm… thì “trí bất đắc hữu vô”. Thong dong. Tự tại.
 

Descartes nói “Je pense, donc je suis – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại”. Ta cũng có thể bắt chước nói: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là nếu tôi không thở thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà vẫn có tôi đó thôi. Từ đó, suy ra rằng cái thời tôi… hết thở, ngừng thở, thì tôi vẫn tồn tại đó chứ, sao không? Tôi lúc đó trở lại trong bào thai Mẹ (bào thai Như Lai, Tathagata garbha) đó chứ!
 

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái “vô tướng” – bỗng “hiện tướng”… đùa vui giữa chốn Ta-bà chút vậy thôi.
 

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay.

Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

.... o ....
 

Cao Huy Thuần: Farewell without separation
 

By Đỗ Hồng Ngọc

Translated by Nguyên Giác
 

When Mr. Cao Huy Thuần sent me the book, “Silence as a Word of Farewell,” I initially thought it must be “Silent Sigh.” “I am listening; I am listening to the silence of my life” (Trịnh Công Sơn). However, that is not the case. Cao Huy Thuần explores the theme of “farewell without separation.”


 

But how can one bid farewell without experiencing separation? Cao Huy Thuần referenced the poem Feuille morte (Dead Leaves) by Hermann Hesse, the author of the novel Siddhartha. He discovered something interesting: Vietnamese people do not refer to "dead leaves" but instead use the terms "dry leaves" and "fallen leaves." Vietnamese people say "rake fallen leaves," "rake dry leaves," but they never say "rake dead leaves," unlike their French and German counterparts. Because leaves never die. When dry leaves fall, they regenerate into buds and young leaves (Silence, CHT).
 

In the poem Song of Two Snails Attending a Funeral by Jacques Prévert, two snails on their way to a dead leaf's funeral reveal the truth.
 

Two snails attended the

funeral of a deceased leaf.

Their shells were both black,

and their horns were white.

Regrettably, spring had already

sprung by the time they arrived.

All the dead leaves

had come back to life.

The two snails returned,

overwhelmed with emotions,

their hearts brimming with joy

and boundless happiness.
 

Oh, how could the two snails, attending the funeral of a dead leaf in the midst of autumn, be filled with joy and happiness? Because they were snails. They moved as slowly as snails do! They crawled throughout the winter, and by the time they arrived, spring had already arrived! "All the dead leaves / had come back to life."
 

Saying goodbye to autumn, we see spring. Saying goodbye to death, we meet life. Saying goodbye to gloom, we encounter excitement. Two snails bid farewell to falling leaves, unaware of what parting truly means! (Silence, CHT).
 

Cao Huy Thuần stated, “They don’t even have concepts…” Of course, he is referring to the Diamond Sutra! When we learn to live “free from concepts” and no longer cling to them, we find that “wisdom neither obtains existence nor non-existence.” This state is leisurely and free.
 

Descartes famously stated, “Je pense, donc je suis—I think, therefore I am.” We might also say, “I breathe, therefore I am.” This implies that if I do not breathe, I do not exist. However, even though I didn't breathe when I was in my mother's womb, I was still present. From this, we can deduce that when I… stopped breathing, I still existed—why not? At that moment, I returned to my mother’s womb (the womb of Tathagata, Tathagata garbha)!
 

Dear Brother Cao Huy Thuần, if we can occasionally enter the Samadhi of Samantabhadra and dwell in the Tathagatagarbha, we can merge with the formless and, at times, suddenly manifest a form to experience a bit of joy in the realm of Samsara.
 

When a bird flies, it doesn't need to understand what the sky is or where its limits lie. It simply takes to the air. In this boundless expanse, Cao Huy Thuan is soaring.
 

This is the flight path of happiness that sparkles with golden rays!

.... o ....

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
01/09/202508:53:00
J81. Surapana Jātaka -- Câu chuyện về Trưởng lão Sagata và sự nguy hiểm của chất kích thích Tóm tắt: Một vị sư, mặc dù sở hữu thần thông vĩ đại, đã bị hạ gục bởi rượu mạnh. Đức Phật kể lại rằng cả một nhóm tu sĩ khổ hạnh đáng kính trong quá khứ cũng đã mất đi thần thông vì rượu.
29/08/202509:54:00
J71. Varana Jātaka -- Truyện về Trưởng lão Tissa, con trai của một vị điền chủ Tóm tắt: Một vị sư, đáng lẽ phải đang nỗ lực, đã ngủ quên và bị gãy xương đùi sau khi ngã. Đức Phật kể một câu chuyện từ kiếp trước, trong đó chính vị sư này đã ngủ quên trong giờ làm việc, và khi thức dậy, mắt bị thương và mang về một khúc gỗ xanh, khiến các bạn đồng hành không được ăn.
27/08/202514:07:00
J61. Asatamanta Jātaka -- Cuộc sống thế tục rất nguy hiểm. Tóm tắt: Một vị sư trẻ, bị thôi thúc bởi ham muốn sắc dục với một thiếu nữ, đang trên bờ vực từ bỏ cuộc sống tu hành. Đức Phật kể một câu chuyện từ quá khứ minh họa cho sự độc ác
25/08/202510:47:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J51. Mahasilava Jātaka -- Vị Vua Không Bao Giờ Bỏ Cuộc Tóm tắt: Một vị sư từ bỏ sự nỗ lực. Để khích lệ ông, Đức Phật kể câu chuyện về một vị vua thời xưa, người đã kiên trì thực hành lòng từ bi ngay cả khi bị đe dọa đến tính mạng—cách ông thoát khỏi việc bị chôn vùi trong nghĩa địa, giải quyết một cuộc tranh chấp giữa hai Dạ Xoa
23/08/202510:43:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J41. Losaka Jātaka -- Chuyện về nhà sư trọn đời thiếu ăn, trừ ngày cuối đời. Tóm tắt: Trưởng lão Xá Lợi Phất gặp một cậu bé nghèo và truyền giới cho cậu. Bất chấp những bất hạnh trong cuộc sống tại gia và sự đấu tranh không ngừng để có đủ thức ăn, cuối cùng cậu đã đạt được quả vị A La Hán. Đức Phật kể lại một câu chuyện quá khứ, trong đó một người đàn ông đã ngăn cản một vị A La Hán nhận thức ăn. Kết quả là, trong mỗi kiếp sống tiếp theo, vị ấy đều gặp bất hạnh. Tuy nhiên, trong kiếp sống cuối cùng, nhờ thiền định về ba đặc tính, ngài đã đạt được sự giải thoát
22/08/202519:01:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J31. Kulavaka Jātaka -- Truyện về Lòng từ bi và năm giới Tóm tắt: Một vị sư, vì khát nước, đã giết hại chúng sinh bằng cách uống nước chưa lọc, điều này trái với quy định của giáo đoàn. Khi nghe chuyện này, Đức Phật kể một câu chuyện về việc Sakka, Vua của chư Thiên, đã tránh làm hại chúng sinh và nhờ đó đã chiến thắng cuộc chiến giữa chư Thiên và A-tu-la.
21/08/202510:33:00
Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J21. Kurunga Jātaka -- Khi Devadatta là một thợ săn và Bodhisatta là một con linh dương. Tóm tắt: Các nhà sư nói chuyện về Đề Bà Đạt Đa và những cuộc tấn công của ông này nhắm vào Đức Phật. Đức Phật giải thích rằng Đề Bà Đạt Đa đã hành động tương tự trong những kiếp trước và kể một câu chuyện về một con linh dương khôn ngoan đã thoát khỏi sự hủy diệt của thợ săn nhờ đọc được những dấu hiệu.
19/08/202509:22:00
Bản Sanh: truyện 11 tới 20 / Jataka Tales: Stories 11–20 Nguyên bản: Pali Anh dịch: Robert Chalmers và Ānandajoti Bhikkhu Việt dịch và rút ngắn: Nguyên Giác J11. Lakkhana Jātaka -- Con nai may mắn Tóm tắt: Đề Bà Đạt Đa ra đi cùng 500 đệ tử, và Đức Phật đã phái Tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên đến để đưa họ trở về. Sau đó, Đức Phật kể một câu chuyện về việc trong quá khứ, Đề Bà Đạt Đa, vì bất cẩn, đã đánh mất đàn gia súc mà ông đang chăn dắt, trong khi Xá Lợi Phất đã cứu sống tất cả.
16/08/202511:40:00
Lời Dịch Giả: Để giúp giới trẻ Việt Nam có thể dễ dàng học căn bản Phật pháp, các truyện Bản sanh nơi đây sẽ được rút ngắn và viết lại cho đơn giản trong song ngữ Việt -Anh. Dịch giả hy vọng các truyện Bản sanh song ngữ sẽ giúp cho quý tăng ni, giáo viên, và Phật Tử có thêm một phương tiện mới để hoằng pháp. Nguồn sẽ dựa theo bản tiếng Anh của 547 truyện Jataka trên mạng SuttaCentral
07/08/202507:21:00
Lời dịch giả: Bài viết sau đây ký tên tác giả là Sa Môn Tố Liên, đăng trên Báo Đuốc Tuệ, ấn bản tháng 7 năm 1936. Hòa thượng Thích Tố Liên (1903 – 1977), thế danh Nguyễn Thanh Lai, sinh năm Quí Mão (1903), tại tỉnh Hà Đông. Xuất thân trong một gia đình Nho giáo. Ngài xuất gia năm 13 tuổi tại chùa Hương Tích, là đệ tử của Tổ Thanh Tích. Với tính cương trực, năng động, mặc dù được chọn làm trưởng pháp tử kế vị chùa Hương Tích, song Ngài quyết tâm du phương tham học nơi các đạo tràng danh tiếng như Đào Xuyên, Tế Xuyên, Bằng Sở, Vĩnh Nghiêm… và đã từng trú trì ở chùa Côn Sơn, Thanh Mai.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.