Hôm nay,  

Ngấn lệ mừng vui

11/04/202416:27:00(Xem: 2861)
mother-n-son

Tôi quen biết một cô Tây, gọi là một cô đầm thì đúng hơn, tên gọi đầy đủ là Florence Cavalier, vợ của ông tây Jean Paul Cavalier. Florence còn trẻ, lối 30 tuổi. Ngày từ khi còn nhỏ, 9 tuổi, Florence đã là một hướng đạo sinh, scout, lớn lên em học và hành nghề y tá. Cái gốc scout và nghề nghiệp y tá bổ túc lẫn cho nhau, thêm Flor có ngoại hình xinh xắn tươi vui, thành ra trông lúc nào cô ấy cũng tràn đầy nghị lực, sức sống và yêu đời.
    Flor kết hôn với Jean Paul trong mười năm, từ khi 23 tuổi cho tới năm 33 tuổi, cô vẫn không có con cái, dù cả hai đều có sức khỏe bình thường, khả quan. Jean Paul là một dược sĩ, làm việc trong một công ty bào chế thuốc tây. Y cũng xuất thân từ nhóm scout từ nhỏ cùng với Flor.
    Sau nhiều tháng ngày tìm tòi, thử thách rồi suy nghĩ, cả hai vợ chồng nhà Cavalier rủ nhau đi Việt Nam xin con nuôi. Tại sao không? Cả hai thỏa thuận, đồng ý và cười nói với nhau rất tâm đắc. Rồi một ngày nghỉ vacances dài năm ấy, Florence đi Việt Nam hai tuần lễ, cùng chồng đi tìm hiểu, quan sát các viện mồ côi, xem xét tập quán và thủ tục coi nơi nào tiện lợi và có thể xin được con. Florence cảm nhận là mỗi lần đi xa tham quan, thăm hỏi như vậy có vất vả, có nhiêu khê thiệt mà cứ coi như là mình phải đi chữa trị hiếm muộn và học mang thai. Cô nghĩ mình nên đi thật xa và mong có một dịp nào đó, hội đủ nhân duyên, sẽ trở về Paris, trên tay cô ẵm theo một bé sơ sinh về theo, như là cô đã sanh con ở một bảo sanh viện trời cho và bồng con về nhà mình.
    Đi và về nhiều lần, nhưng Florence không nản lòng, cứ nghĩ đến một ngày đẹp trời sẽ bồng con về nhà là hai vợ chồng trẻ lại hăng hái, đeo ba lô lên vai, năng nổ đi Việt Nam. Có những lần ở Việt Nam mới được có hai tuần lễ, Florence đã phải trở về Pháp vì những công việc bận rộn ở nhà thương. Jean Paul ở lại Sài Gòn một mình, tiến hành thủ tục nhận con nuôi ở một cô nhi viện. Jean Paul không quá tỉ mỉ như cô vợ, anh nói là khi anh chìa tay ra bồng, mà bé nào đồng ý cho anh ẵm thì đó là con anh. Jean Paul kể lại là cũng rất khó khăn vì các bà mẹ bề trên đòi hỏi có đủ các thứ giấy tờ chứng tỏ họ có thể nuôi nấng các trẻ chu đáo, kể cả giấy chủ quyền bất động sản và tài khoản ngân hàng riêng tư.
    Có lần, đi lung tung sao đó trên con đường nhỏ yên tịnh râm mát Tú Xương, vậy mà vừa đi qua nhà nguyện lối 500 thước, anh bị một tốp bốn cô gái lạ đón đường hỏi chuyện, ngôn ngữ bất đồng, xích mích, dằng co sao đó, anh bị chúng đánh, đấm, đá túi bụi  lột áo quần ngoài… Chạy, anh chạy thục mạng, chạy thoát với chỉ một bộ áo quần lót trên mình, đêm núp trong một bụi cây rậm, đợi sáng hôm sau mới chui ra để trở về nhà nguyện xin giúp đỡ.
    Sau tai nạn bất ngờ, Jean Paul được nhà nguyện đưa tới tòa đại sứ. Sau lần đó, một tháng sau, anh trở về Paris với thành công tốt đẹp là xin được hai bé gái bốn tháng tuổi song sanh mang về cho vợ. Florence mừng khôn xiết. Nuôi hai bé song sanh còn nhỏ, hai vợ chồng trẻ chưa quen cũng khá vất vả lúng túng đêm ngày, tới khi con bập bẹ, học nói, Jean Paul, dậy chúng, Marie và Lucie, gọi Flor là maman Florence, rồi mẹ nuôi chúng cũng rất cảm động dậy hai con nhỏ kêu bố là papa Jean Paul.
    Những tưởng có hai đứa con là đủ rồi, nhưng không, khi các con gái đã bắt đầu vào trường mẫu giáo, Flor lại lần mò kiếm cớ đi Việt Nam, cô nàng giảng giải cho các con là: maman phải đi xa, đi về quê hương thật xa để có thể sanh được em bé, em bé trai, gia đình mình sẽ một nhà đông vui, một famille nombreuse!
    Với tài tháo vát của một y tá, một hướng đạo sinh, một người mẹ đầy thiện tâm, cô ấy xin được hai đứa con trai sau đó. Cô ấy kể là đã bán đi tất cả nữ trang quý mà mẹ cha đã cho, cộng thêm tiền tích góp  của vợ chồng nhiều năm qua. Cô ấy mang theo một số tiền khá, bảo là bọc theo khi cần giải quyết mọi công việc cho mau chóng. Khi Flor trở về Pháp với hai con trai, một ba tuổi, một bốn tuổi. Cô ấy bị má chồng rầy la vì lúc này con trai bà cũng quá vất vả bận rộn với lũ nhỏ. Bà mẹ trách móc: « Sao con muốn mang cả cái viện mồ côi về đây hả? Cả nhà này xúm lại mà lo cho lũ trẻ cũng không nổi đâu. Rồi mọi người sẽ đau ốm vì cái việc đi xin con nuôi của con thôi! »
    Cả người mẹ ruột cũng rầy rà, xin một đứa là đủ, con xin nhiều quá rồi!
    Nhưng Flor không có thì giờ đâu mà lưu tâm với những lời khiển trách. Cô tối mặt, quay vòng vòng săn sóc các con. Cơm, soupe, tắm giặt suốt cả ngày, suốt cả tuần lễ. Nhứt  là hai đứa con trai mới về, chúng khóc quá và không chịu ăn đồ ăn tây. Chúng không ăn soupe khoai tây carotte, Jean Paul phải học nấu cơm bằng nồi cơm điện và xắt nhỏ từng con tôm rim, trộn vô cơm rưới maggy lên, nhưng chúng chỉ ăn khi nào thiệt đói, còn là cứ khóc và la lối, đòi về nhà. Flor có lúc đã ôm hai đứa mà khóc theo chúng, cho tới lúc cả ba mẹ con đều mệt lử và ngủ êm trên nệm vây tròn. Jean Paul thương vợ, luôn gọi vợ là thủ tướng, ma 1ère ministre! Florence yêu cầu điều gì, anh cũng làm theo, rồi có một lúc, anh bảo với các con: « Đây là nhà chúng ta, nhà chúng ta mà maman Florence đã làm ra ! » Nhưng hình như anh nói vậy chỉ để cho anh nghe, bầy trẻ vẫn còn khóc rỉ rả.
    Cả hai quá vất vả với bốn đứa con đến gần nhau và tuổi cũng san sát gần bằng nhau. Có lần người mẹ trẻ Flor đang làm bếp thì nghe ồn ào ở phòng khách, nàng chạy ra tiếp cứu, hỡi ôi, hai đứa con gái đang đuổi đánh hai thằng con trai. Lại phải nhiều màn can gián và giải thích ỉ ôi. Phong ba, bão táp, giông tố, sừng sộ, rồi cũng êm lần, giảm nhẹ với thời gian. Nhưng sức người có hạn, có những tháng ngày Flor bị cảm, ho mệt lừ đừ, đi lảo đảo, đứng ngồi loạng choạng, mẹ ruột cô càu nhàu: « Khi con làm gì con phải lượng sức mình, khi mình làm không nổi thì chừa lại phần nào cho người khác làm, có thể người ta làm vừa sức, kết quả tốt hơn con. » Flor lặng lẽ uống nước, cúi đầu, không phản kháng. Sau đó, Flor được má cô mướn cho một người giúp việc, nhưng một tháng sau cô ấy xin cho chị người làm đi giữ caisse ở một siêu thị gần nhà. Florence tự xin nghỉ làm việc không lương 2 năm để nuôi con. Lâu lâu, Flor điện thoại nhờ cô caissière đã quen mua giùm cho một xe đồ ăn, đồ gia dụng cần thiết để khỏi đi chợ.
    Cũng với 4 đứa con, Flor xin được trợ cấp gia đình đông con, còn một lương chồng, nàng sống tiện tặn, không xa hoa, cũng đủ cho sáu người tạm ổn. Dù có khéo thu vén tới đâu, dù cố gắng đến mấy đi nữa, thì qua một mùa đông quá lạnh lẽo, Florence cũng ngã bệnh nặng, nằm vùi cả ngày. Khi có thể vực dậy, cô nàng tự chữa bệnh lấy, bảo là mình chỉ bị suy nhược và trúng cảm lạnh, không đáng quan tâm.
    Cô ấy vẫn trở dậy buổi sáng, đi lại, làm việc trong nhà như nấu ăn, xếp dọn quần áo, lo bữa ăn sáng và chuẩn bị các giỏ sách, giầy dép, nón, áo để chồng đưa các con đi học. Xong lại chóng mặt và đi nằm nghỉ. Flor ăn không mấy ngon và có vẻ mòn mỏi trong suốt thời gian dài cả năm trời như một người bệnh tương tư vô duyên cớ.
    Rồi tới một ngày, thượng đế trả công, một mùa Noël rộn rã đến. Lúc này cô đã gần 40 tuổi. Một ngày, vừa thấy ngon miệng, đi nấu bát soupe asperge, ăn ngon lành, nhưng ăn xong, đi rửa chén bát, Florence thấy lợn cợn trong cổ rồi nôn ói ra hết đồ ăn. Tự nhiên, Flor có linh cảm là mình có sự thay đổi trong cơ thể, hình như là nàng nghĩ mình sẽ có bébé, trời cho, cấn thai.
    Những ngày tiếp theo, Flor lấy hẹn đi khám bác sĩ sản khoa, người mà đã mười mấy năm qua không một lần nghĩ tới! Vị bác sĩ cũng nghĩ là cơ thể của Florence có một sự thay đổi và giới thiệu cô vào bệnh viện chuyên môn. Nơi đây, người chuyên ngành làm xét nghiệm nhiều lần và xác định là cô có thai. Họ giải thích là khi còn trẻ, có thể cô không có đủ kích thích tố, hormone cần thiết, để có thai nhi, vì một lý do nào đó, hoặc do di truyền gia đình, hoặc do đồ ăn uống cách sống cơ thể mà tự nhiên không có con. Đến nay tuổi khá lớn, đầy đủ hormone, nhờ tự nhiên của cơ thể, nhờ sự tiếp cận huyền diệu do chăm sóc con trẻ mà có, nhờ những xúc cảm chân thành trong tâm sinh lý « mẹ-con » được tự tạo, tất cả hồi sinh. Florence đã mang thai đứa con đầu lòng của chính cô và chồng. Khi nghe bệnh viện sản khoa tuyên bố điều kỳ diệu đó, Florence đã bật khóc và nói  lên lời: « Không, không phải đây là lần đầu tiên, mà đây là đứa con thứ năm của tôi! »
    Florence và chồng báo tin cho mẹ cha cả hai bên nội ngoại rồi thì chỉ chưa tới một năm sau, cô ấy đã sanh ra một bé gái kháu khỉnh đặt tên là Anne, bên cạnh một cái tên Việt Nam như các anh chị nó, là An Cavalier.
    Florence đeo bé An hơi cao trong một cái đẫy phía trước ngực, vòng hai tay ôm luôn bốn đứa con lớn vào lòng, đứng bên chồng. Họ cùng sung sướng hạnh phúc bên nhau, cùng dắt díu nhau mang bảng đá « xin tạ ơn » vào nhà thờ mà mère Miraculeuse ở rue Boileau, Paris 6ème mấy đứa trẻ đã lớn lên thấy rõ, chúng vui sướng chạy qua chạy lại trong khuôn viên nhà nguyện. Đó đây hoa lilas nhiều màu, hoa hồng, hoa huệ theo gió đưa hương, mùi thơm thoang thoảng như bay xa.
    Trên bệ đá uy nghi, nến vẫn cháy và vẫn chẩy, từng ngọn nến xếp hàng, từng hàng vẫn sáng rỡ long lanh! Trên kia, cao hơn, tượng đức mẹ chan hòa ân sủng, dường như còn đọng hơi sương long lanh ngấn lệ, ngấn lệ mừng vui và ánh sáng của cứu rỗi, của đức tin.
 

– Chúc Thanh

Paris, mùa phục sinh 2024

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
Hai hôm trước một cô em, cũng cầm bút, đến thăm, nhân tiện đề nghị, nếu sức khỏe không cho phép tôi gõ chữ thì cô ấy sẽ giúp, tôi chỉ cần nói qua băng ghi âm, cô em chép lại rồi giao cho tôi nhuận sắc. Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, qua trao đổi riêng, vẫn nhiều lần khuyên tôi nên viết hồi ký. Theo hai người, do một thời chủ trương tạp chí Hợp Lưu, tôi có điều kiện tiếp cận và rành rất nhiều chuyện của giới văn nghệ sĩ cũng như văn học hải ngoại lẫn trong nước, nếu tôi không làm thì rồi mọi sự cố sẽ trôi vào lãng quên, thiệt thòi cho văn học Việt Nam, uổng lắm.
Tuổi già thường sống với dĩ vãng. Nhiều chuyện tưởng đã vĩnh viễn ra khỏi trí nhớ, thế mà bất chợt bỗng hiện về, có khi mồn một từng chi tiết nhỏ, tựa mới xảy ra hôm qua, hôm kia, có khi nhập nhòa hư thực bất phân. Chuyện này không lâu, chỉ 23 mươi năm, trước một năm ngày tôi bị tai biến. Nhớ, vì có một chi tiết, lạc đề, nhưng vui.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.
Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con. Tôi thích vì rất hợp tạng. Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn "Ba Điều Bốn Chuyện" này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.