Hôm nay,  

Nghĩ Về Cái Dũng Của Người Xuất Gia

06/12/202400:00:00(Xem: 4917)
1-mộc-lan
nghi thức cạo tóc trong lễ xuất gia tại tu viện Mộc Lan (Hình: Việt Báo)
 
Memphis là thành phố lớn của tiểu bang Tennessee, nổi tiếng là một trong những cái nôi của dòng nhạc Blues & Jazz của nước Mỹ. Cách đây 4 năm, tôi lái xe đến thăm Memphis chỉ để được nghe nhạc Blues “nguyên chất” tại B.B King’s Blues Club, một trong những “việc đáng làm trong đời” đối với những người mê nhạc Jazz. Nghe nhạc Jazz ở Memphis sẽ thấy được dòng nhạc như chảy trong huyết quản của người da đen ở Miền Nam Hoa Kỳ.

Vào đầu tháng 10 năm nay, tôi trở lại thành phố Memphis, nhưng đó không phải là đích đến của chuyến đi. Memphis có phi trường chỉ cách Tu Viện Mộc Lan khoảng hơn một tiếng lái xe. UH, một cô bạn đồng tu đã từng cùng học với một vị thầy, cùng sinh hoạt trong một nhóm Phật tử ở Quận Cam California được chấp nhận vào ni đoàn, làm lễ xuống tóc xuất gia tại Mộc Lan. Tôi cùng một nhóm bạn nhận lời mời đến dự sự kiện trọng đại của một đời người này.

Tu Viện Mộc Lan nằm ở thị trấn nhỏ Batesville thuộc tiểu bang Mississippi, là một trong ba tu viện theo Pháp Môn Làng Mai của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh ở Hoa Kỳ, cùng với Tu Viện Lộc Uyển ở Nam California và Tu Viện Bích Nham ở New York. Từ Memphis xuôi theo xa lộ liên bang 55 về hướng Nam, rồi đi vào những con đường mòn nhỏ xuyên qua những cánh rừng xanh ngắt, chúng tôi đến Mộc Lan lúc trời đã sụp tối. Để lại Memphis những cảm xúc âm nhạc, đón nhận sự bình yên của chốn thiền môn nằm tĩnh mịch giữa rừng cây, với tháp chuông trước lối vào là cột mốc để khách phương xa nhận diện mình “đã về, đã tới”. UH ra đón, chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Đã hơn hai năm rồi mới gặp lại, kể từ ngày UH về Mộc Lan bắt đầu thời gian thử thách trước khi được chính thức nhận vào ni đoàn.

Buổi lễ xuất gia của UH và một sư cô nữa được tổ chức vào sáng sớm hôm sau. Có khoảng hơn 100 Phật tử tham dự, Mỹ có, Việt có. Mọi người ngồi thiền tại chánh điện từ 5:30 giờ sáng, 7 giờ nghi lễ bắt đầu. Không khí trang nghiêm, thanh tịnh mà vẫn nhẹ nhàng. “Sự im lặng hùng tráng” như cách mà Thiền Sư Nhất Hạnh mô tả. Sau nghi thức xuống tóc, hai vị xin xuất gia thọ 10 giới sa di ni, nhận y áo, nhận pháp danh. Người bạn đạo UH ngày nào nay nhận pháp danh là Tâm Hải Minh, pháp tự là Chân Dũng Hạnh, chính thức gia nhập tăng đoàn có chiều dài lịch sử hơn 25 thế kỷ của Đức Phật…

Giây phút gây xúc động nhất của buổi lễ là thời điểm cạo tóc của hai vị sa di ni mới. Tôi nhớ như in bài kệ:

Cạo sạch mái tóc
Nguyện cho mọi người
Dứt hết phiền não
Độ thoát cho đời

Hai vị nữ sa di quì, cầm nhang, miệng niệm Quan Thế Âm Bồ Tát, trong khi được các sư cô khác cắt tóc của mình. Không phải “cắt tóc”, dùng chữ “xẻn tóc” có lẽ đúng hơn. Tóc- một trong những biểu tượng cái đẹp của người phụ nữ- bị xẻn dứt khoát, từng lọn rơi xuống sàn chánh điện. Đó là sự buông bỏ, đoạn tuyệt. Những vướng bận của kiếp người nay quyết rũ bỏ. Cả hai vị với gương mặt thanh thản, nhưng nước mắt vẫn ràn rụa. Những người thân có mặt xung quanh, không ai cầm được nước mắt. Thật khó mà diễn tả được cảm xúc của những giọt nước mắt của từng người vào thời điểm đó. Mỗi người khóc có thể trong những tâm trạng khác nhau, nhưng chắc chắn không phải do khổ đau. Khóc vì cảm động. Khóc vì chứng kiến giây phút thiêng liêng của một đời người. Riêng tôi rơi lệ vì cảm phục dũng khí của người em pháp hữu năm nào, nay đã thanh thản rũ sạch những luyến ái thế gian, điều mà tôi chưa thể làm được trong kiếp này.


2-mộc-lan
bia đá ở tu viện Mộc Lan với bốn câu thơ của Thiền Sư Nhất Hạnh. (Hình: Việt Báo)
Nhớ lại UH ngày xưa, một phụ nữ đã trải qua mọi nỗi buồn vui của thế gian. Một cô bạn thân kể lại rằng hồi trẻ, khi đi làm thành công, kiếm được nhiều tiền, UH cũng đi xe hạng sang, cũng xách túi da hàng hiệu. UT là người hát hay nhất trong nhóm Phật tử của chúng tôi, đã từng làm một CD đơn ca riêng cho mình. Rồi cũng có gia đình, có con. Rồi cũng trải qua những khổ đau thường có của đời người. Khác với người bình thường, UH luôn vượt qua những sóng gió của cuộc đời, những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần bằng một nghị lực đáng khâm phục.

Bạn bè kể lại rằng UH đã có ý nguyện xuất gia từ nhiều năm trước, dành nhiều thời gian ở trong chùa mỗi khi có thể. Chuẩn bị cho mình sẵn sàng, đợi cho đến ngày sinh nhật thứ 18 của cậu con trai độc nhất, UH mới nói chuyện với con, cho biết về dự định của mình, bàn thảo về tương lai của con, và có được sự đồng thuận giữa hai mẹ con.

Nhìn lại cả một tiến trình như vậy để thấy quyết định xuất gia của UH là một quyết định của trí tuệ, của ý chí chứ không phải từ cảm xúc nhất thời. Không bi lụy, không chạy trốn, mà là sự dũng cảm dám buông bỏ. Cảm nhận được chân lý Khổ Đế bằng kinh nghiệm của chính đời mình, UH tìm đến với Đạo vì biết đó là con đường thoát khổ rốt ráo nhất. Đi tu không phải là để tránh né những khó khăn, khổ đau của thế gian. Vào cửa thiền môn để có khả năng đối diện, vượt qua khổ đau bằng con đường Chánh Pháp.

Phật tử nào cũng được dạy về Khổ, Tập, Diệt, Đạo, nhưng không phải ai cũng có thể trở thành người xuất gia. Cách đây chừng 5 năm, nhóm Phật tử của chúng tôi (cùng sinh hoạt với UH) có đủ duyênlành được Thầy tổ chức cho một khóa tu giao duyên. Một số bạn được làm thủ tục xuất gia đoản kỳ, cũng xuống tóc, cũng mặc y áo tăng đoàn trong vài ngày. Thầy bảo rằng chỉ cần như vậy cũng sẽ tạo ra một duyên lành lớn, để kiếp sau tiếp tục tinh tấn tìm đến Phật-Pháp-Tăng. Thầy đề nghị tôi xuất gia đoản kỳ. Tôi suy nghĩ kỹ, rồi trả lời là mình chưa sẵn sàng. Một phần là vì tôi thấy mình chưa xứng đáng để khoác áo cà sa, dù chỉ một giây phút. Tôi kính trọng hình ảnh một vị tăng khoác áo cà sa cũng như kính trọng cả tăng đoàn thời Đức Phật. Một phần là vì tôi biết mình vẫn chưa có đủ dũng cảm để lìa bỏ ái dục, một trong những chướng ngại lớn nhất của Phật tử trên con đường giải thoát. Vẫn biết những niềm đam mê của con người là vô thường, có rồi mất, là nguồn gốc của khổ đau. Nhưng cần phải có đủ dũng khí để đoạn tuyệt với những vui buồn của một kiếp người. Cần phải có nghị lực, và đủ duyên mới làm được.

Tôi chưa thể làm được trong kiếp này, nên càng cảm phục người bạn đồng tu của mình ngày nào, nay đã dũng cảm rũ bỏ ràng buộc luyến ái để thanh thản khoác lên người chiếc áo Phật. Pháp tự Chơn Dũng Hạnh thật là ý nghĩa, thể hiện đúng dũng khí, hạnh nguyện của người đạo hữu vừa chính thức gia nhập tăng đoàn của Đức Phật. Đạo Phật là đạo của Bi -Trí- Dũng. Chỉ có những người con Phật có đủ ba tố chất này mới có thể đi đến tận cùng con đường giải thoát.

Chia tay với sư cô Chơn Dũng Hạnh, tôi một mình đi theo con đường mòn của thiền viện để chuẩn bị trở về nhà. Ở bên đường, bên cạnh một góc rừng, tôi đọc được trên một tấm đá bia mấy câu thơ của Thiền Sư Nhất Hạnh. Thấm thía làm sao.

Về đi lữ khách đường xa lắm
Cát bụi sầu thương vướng đã nhiều
Thanh thản ngủ trong lòng đạo cả
Cho hồn thơ ấu được nâng niu
 
Doãn Hưng
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rượu có chi cay mà uống rượu phải đưa cay. Tôi phân vân về chữ “đưa cay” này. Gọi quách một cách trực tiếp như dân miền Nam: nhậu là phải có mồi. Như đi câu cá. Cá đớp mồi cá sẽ lên bàn nhậu. Nhậu một hồi sẽ “quắc cần câu”. Quắc cần câu là… xỉn, thân hình đi đứng liêu xiêu cong như cái cần câu cá. Xỉn quắc cần câu có biệt tài tự về tới nhà, lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy chẳng nhớ cái chi chi. Tại sao người quắc cần câu lại có biệt tài như người mộng du vậy? Mỗi khi con người trải nghiệm được một thứ mới, thùy trước trán sẽ lưu giữ những thông tin này theo dạng trí nhớ ngắn hạn. Sau đó hồi hải mã nằm ở não trước sẽ ghi những thông tin ngắn hạn này để tạo thành ký ức dài hạn. Đường truyền từ thùy trước trán tới hồi hải mã cần có những neuron thần kinh đặc biệt dẫn lối. Say xỉn khiến những neuron này không còn hoạt động. Vậy là xỉn xong ngủ dậy chẳng còn nhớ mô tê gì hết!
Tôi quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ, đủ thứ hạng: vang danh năm châu bốn biển, khiêm nhường quận lỵ làng xã, làng nhàng phường khóm, tổ dân phố. Đa phần không như tôi tưởng hồi còn trẻ, họ chả phải là những á thánh mà chỉ là những con người với đầy đủ cung bật tốt xấu. Có anh đóng rất tròn vai trò người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình, có chú chân chỉ hạt bột, cơm nhà quà vợ và … sòng phẳng đến độ, trong mắt nhìn bạn bè, là những gã keo kiệt, xem cắc bạc như bánh xe bò, tính toán chi li từng tách cà phê, từng điếu thuốc.
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất: Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng)
Hồi học đệ tứ (lớp 9 bây giờ) tôi có một thằng bạn tên Thái Hải, con trai bác sĩ kiêm thi sĩ Thái Can, nó giống tôi ở cái tính “ba nhe” (phương ngữ miền Trung chỉ những bọn trẻ rắn mắt, cứng đầu, nghịch phá), nhưng khác tôi 180 độ: hắn học cực giỏi, tôi cực dốt! Hơn sáu mươi năm, tôi lang bạt kỳ hồ, thỉnh thoảng về quê nhưng chỉ như khách trọ, chỉ lưng bữa nửa tháng lại ra đi, nên không có cơ hội gặp bạn bè xưa, cũng có nghĩa kể từ ngày còn oắt con cho đến bây giờ tôi chưa gặp lại người bạn thời niên thiếu. Nghe nói sau này hắn cũng là bác sĩ như ông thân sinh. Phải thôi, học giỏi như nó, không nối nghiệp cha mới lạ.
Có thể khẳng quyết, trong dòng văn học Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, chắn chắn Song Thao là nhà văn viết Phiếm uyên bác và mạnh mẽ. Ông đi nhiều, đọc nhiều, viết chuyên cần. Chỉ trên mười năm ông đã trình làng 31 tập Phiếm, mỗi tập trên 300 trang. Đề tài của ông đa dạng, bao quát, từ cây kim sợi chỉ đến vũ trụ bao la với lỗ đen, mặt trăng, sao hỏa, phi thuyền…, đến chuyện đời thường, những địa danh ông từng đặt chân đến. Chúng ta sẽ còn được đọc nữa những tập Phiếm sẽ ra trong tương lai.
Những năm trên dưới hai mươi, tôi xem văn chương là một thứ đạo, những cuốn sách, những thi phẩm không khác kinh thánh, các nhà văn, nhà thơ ngang bằng các giáo chủ. Tôi mê văn chương, tôn sùng những người tạo ra nó. Bước vào tuổi trung niên, say mê vẫn còn, nhưng bình tĩnh hơn, chừng mực hơn. Cho đến khi phần lớn đời mình gắn liền với sách vở như nghiệp dĩ, văn chương, ban đầu tôi viết vì nhu cầu nội tâm, muốn tỏ lộ những buồn vui đau đớn hài mãn… qua chữ nghĩa, trước tiên cho mình, thứ đến cho người, với mong muốn xẻ chia.
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.