Hôm nay,  

Bộ Đồ Lòng

16/05/202500:00:00(Xem: 862)

long heo

Đĩa lòng heo.

Bộ đồ lòng dĩ nhiên gồm có…lòng. Nhưng lòng lại chia ra nhiều loại: lòng non, phèo, lòng già, khố linh. Khố linh là phần cuối của lòng già, ăn rất giòn, béo vì có lớp mỡ bên trong. Đó là điểm cộng của khố linh. Điểm trừ là khố linh rất hôi, có lẽ đây là lý do có chữ “khố” nằm vùng ở đây. Bàn ngang một chút: lòng còn chỉ “lòng dạ”, một từ không dính dáng chi tới chuyện ngon hay dở. Nghĩa bóng của “lòng dạ” chỉ liên quan tới con người, còn bò heo gà thì chỉ có một nghĩa. Ngoài lòng, bộ đồ lòng còn bao gồm tim, gan, bao tử, dồi trường. Dồi trường chỉ có ở heo nái. Tùy theo tuổi heo, dồi trường to hay nhỏ. Loại ngon nhất là dồi trường của heo nái đẻ hai hoặc ba lứa. Nhưng ít thực khách biết chuyện này nên cứ đòi dồi trường to, vừa đắt vừa không ngon.

Tôi thuộc loại thích ăn bộ đồ lòng nên viết tới đây đã thấy tốn nước miếng, nhưng ráng nuốt cho thông cái họng để viết tiếp. Kỳ lạ, họng cũng được coi như bộ đồ lòng. Không phải vì thịt vách ngăn cuống họng có vị giòn tan và ngọt mà vì họng được băm nhỏ làm tiết canh cho có chất sụn giòn giòn sừn sựt.

Tiết canh là một món ăn chơi tuyệt diệu. Có tí đế hay whisky vào còn tuyệt diệu hơn nữa. Khi xưa, lúc còn ở Việt Nam, tôi là fan của tiết canh. Nhân tiết canh gồm bộ đồ lòng nhưng không dùng gan. Dùng hành nướng, rau mùi, húng, lá chanh, ớt, băm nhỏ và trộn lẫn với nhau. Tiết được hãm với nước mắm hoặc chanh, muối và nước đun sôi để nguội. Khi tiết canh đã đông mới cắt gan thành lát nhỏ rắc lên trên. Fan của tiết canh như tôi bây giờ nhìn tiết canh làm lơ vì cái tội của khoa học. Các chuyên viên y tế vạch tội tiết canh một cách rất tận tình. Nó gây ra bệnh giun sán, nhiễm liên cầu khuẩn lợn, gây ra ngộ độc có thể dẫn đến tử vong. Một trong những nguyên nhân là khi cắt tiết heo gà vịt người ta không phân biệt được máu đỏ và máu đen, cứ lấy tuốt. Máu đen là chất thải độc của con vật. Nghe dọa như vậy, cái miệng teo lại liền. Chẳng nên phiêu lưu rước bệnh vào người. Mấy anh tây thấy tiết canh rùng mình chạy có cờ. Mấy anh mũi lõ này mải chạy mà quên lịch sử đớp hít của chính mấy anh.

Tại Pháp cũng có món tiết canh có tên là “sanquette”. Tại các miền quê, người Pháp giết ngỗng, gan, gà, vịt, dê, cừu, thỏ bằng cách kẹp chặt hai chân sau, đập đầu, móc mắt, cắt tiết rồi cạo lông. Tôi không rõ dân Pháp làm tiết canh như thế nào, có như dân mít ta không, nhưng họ cho đó là món ăn ngon và bổ nhất trên cõi đời này. Tiết canh đã được liệt kê trong cuốn “Grand Livre de Cuisine Bistrot” của đầu bếp trứ danh Alain Ducasse.

Sẵn đang nói chuyện bên Tây, nói về chuyện...dồi Tây coi nó khác dồi ta ra sao. Tây có món dồi huyết (boudin noire). Không chỉ ở Pháp mà ở Ý, Thụy Sĩ, Bỉ, Anh, Tây Ban Nha, Nga, Romania đều khoái hết. Dồi chỉ nhồi toàn huyết coi bộ thiếu sáng tạo. Chưa bao giờ thử mà tôi thấy chẳng có chi hấp dẫn. Chi chứ dồi ở Việt Nam nhất định nhiều phần hấp dẫn hơn. Mỗi loại dồi có nhồi nhét những thứ khác nhau bên trong.

Nói ra thì có nhiều người phản bác nhưng nói tới dồi không thể không nói tới chuyện dồi chó.  Sống trên đời ăn miếng dồi chó / Chết xuống âm phủ hỏi có hay không? Dân gian đã bàn tới chuyện món ăn xuyên âm dương như vậy hỏi có thể bỏ qua được không? Chắc là không! Dồi được làm bằng lòng non. Lộn trái cỗ lòng, làm thật sạch, sát muối rồi rửa kỹ cho hết mùi hôi. Nhân dồi gồm đậu phọng rang, đậu xanh đãi vỏ đồ chín giã mịn, mỡ màng tang băm nhỏ, búp dâu non thái như thái thuốc lào, hành răm thái nhỏ, tiết đọng, hạt tiêu trộn đều. Nhồi xong mang luộc hoặc hấp chín đều. Vớt ra, quấn khúc dồi đã chín vào một khúc tre, nướng trên than hoa đỏ rực tới khi vỏ dồi vàng rộm nhưng không cháy, dồi không bị nứt. Dồi ăn với nước chấm được chế riêng từ lục phủ ngũ tạng của con cầy: cuống họng, phổi, tụy, thận, thực quản, ruột già làm sạch. Xào tất cả với khế chua cho tới khi chín tới, cho thêm mẻ vào, đảo đều, nấu tiếp tới khi được thì bắc ra, cho thêm vào vài lát ớt và lá chanh. Ăn với húng chó, rau mùi già và…ba xí đế! Ngon như thế nào, phải viện tới ông nhà văn sành ăn Vũ Bằng tả tình tả cảnh. “Đã định không nói, nhưng không nói không chịu được. Ờ mà nếu ca tụng thịt cầy mà mang tiếng là thiếu văn minh thì mình cũng đành chịu cái tiếng thiếu văn minh vậy, chớ nói đến miếng ngon Hà Nội mà không nói đến thịt cầy, người ta quả là thấy thiếu thốn rất nhiều. Chỉ thiếu có một người, vũ trụ bao la hiu quạnh... huống chi lại thiếu thịt cầy thì còn vui sống làm sao? Nhắm một miếng dồi, lại đưa cay một tợp rượu, rồi khẽ lấy hai ngón tay nhón một ngọn rau húng điểm vào một vị hăng hăng, man mát cho tất cả cái bùi, cái béo, cái cay, cái mát, cái hăng quyện lấy nhau, anh sẽ nói với tôi cảm tưởng của anh ra thế nào... Quả vậy, nếu sau này, người ta chết xuống âm phủ mà không có dồi chó để ăn thì âu cũng là một mối hận thiên thu mà ta cần phải đề phòng ngay tự giờ. Óc chó có tiếng là ngon, nhưng có ý vị, càng ăn càng thấy ngon thì chính là dồi chó. Sao mà lại có những người có óc vĩ đại lại đi nghĩ ra được cách làm một cái thứ dồi ngon lạ ngon lùng đến thế, một tổ hợp tiết tấu đến như thế, hở Trời? Gắp một miếng chấm muối chanh, rồi đưa cay một hơi rượu, ta thấy tất cả tiết, sụn, lá thơm và đậu xanh ở trong miếng dồi nâng đỡ nhau, đoàn kết nhau thành một khối bất khả chia lìa, không những thấy ngon lành cho khẩu cái mà thôi, nhưng lại còn làm cho ta mát gan nở ruột vì cái đẹp tinh thần do sự nhất trí tạo thành”.

Dồi heo lại là một trường phái khác. Trường phái này mang tính chia rẽ Bắc Nam. Người Nam dùng ruột non, trừ dân Tây Ninh xé rào dùng ruột già như người Bắc. Dồi Nam được nhồi bằng thịt vai xắt hạt lựu, huyết chín, đậu xanh, hạt tiêu rang vàng đập giập, rau răm, rau húng quế xắt nhỏ. Dồi được hấp chín rồi chiên vàng. Người Bắc dùng ruột già tuốt bằng nước gạo. Nhân gồm sụn, cổ họng, mỡ sa, ba chỉ, rau răm băm nhuyễn, hành hoa xắt nhỏ, đậu xanh rang, lá xương sông, nước cốt riềng, sả, tiết đông. Dồi Bắc được luộc chứ không nướng. Dồi dùng với nước chấm gồm mắm tôm đánh sủi bọt với rượu trắng, nước cốt chanh, ớt xắt lát, chút mỡ nước và đường. Rau ăn kèm gồm húng chó, húng quế, rau thơm, rau ngò, tương tự như khi ăn tiết canh.
Tận dụng bộ đồ lòng kỹ nhất phải nói tới phá lấu. Phá lấu dùng hầu hết các phần của bộ đồ lòng. Nhắc tới phá lấu, những người thuộc thế hệ trẻ trước khi Sài Gòn đổi chủ chắc phải thở dài. Như lời một bản nhạc, “nhớ ơi là nhớ, nhớ bất tận”, nhớ nẫu lòng nẫu ruột. Nhưng phá lấu không phải là món của Sài Gòn mà là của người Triều Châu, vùng Quảng Đông bên Tàu. “Lấu” tiếng Tiều có nghĩa là ướp các gia vị cay. “Phá”  nghĩa là thịt động vật. Người Tiều thường làm phá lấu trong những ngày giỗ chạp, cúng kiếng. Lễ vật của những dịp này là nguyên con heo. Thường thì không dùng hết nên họ đem các bộ phận của thịt heo tẩm ướp thành phá lấu dùng lâu dài trong những ngày sau đó. Lưỡi, tai, ruột, bao tử được ướp bằng hỗn hợp quế, hồi, bát giác hồi hương, ngũ vị hương cùng một số vị thuốc bắc. Phá lấu được nấu chậm trong nhiều tiếng đồng hồ, có khi nấu cả ngày mới xong. Nồi phá lấu của người Tiều nhiều khi được để quanh năm suốt tháng trên bếp lửa, hết nước lại châm vào với nước thêm tí muối là có thể ăn dần trong cả năm. Phá lấu Quảng Đông của người Tiều du nhập vào Sài Gòn đã được thay đổi theo sở thích của người dân miền Nam Việt Nam. Tác giả An Lê đã viết trên báo Lao Động ra ngày Chủ Nhật 13/4/2025 vừa qua như sau: “Những ghi chép về nghệ thuật ẩm thực vùng Triều Châu (Quảng Đông, Trung Quốc), cho chúng ta biết phá lấu thường dùng thịt gà, thịt thỏ, thịt bò, thịt heo cắt vuông rồi ướp kỹ và nấu chậm đến khi thành phẩm. Nhưng phá lấu ở Sài Gòn, rất ít dùng thịt, có chăng chỉ là phần thịt thủ của heo gồm mũi, tai, lưỡi và chủ yếu vẫn là nội tạng bò, heo. Đó là bởi phá lấu gặp thói quen thích ăn nội tạng heo và tục lệ cúng đầu heo của người Nam Bộ. Bởi ở thời kỳ đầu của vùng đất phương Nam, con trâu, con bò vẫn là “đầu cơ nghiệp” của việc nông nghiệp, thế nên, người dân chỉ thường giết heo để cúng tế và ăn thịt hơn là dùng trâu, bò. Do đó, đã có một sự chuyển biến về mặt nguyên liệu chế biến, chuyển từ các loại thịt sang nội tạng của heo, thịt đầu heo. Chỉ đến khi trâu, bò được coi như thực phẩm thông thường, người ta mới nấu phá lấu bằng nội tạng bò vì nhiều hơn, rẻ hơn nội tạng heo và gia cầm. Một hương vị chỉ có ở ẩm thực Nam Bộ cũng đã xuất hiện trong món phá lấu là nước cốt dừa, tạo ra hương vị thơm béo, ngầy ngậy rất lôi cuốn. Như thế, chúng ta đã nhìn thấy hành trình hòa hợp một phương thức nấu ăn người Tiều với nguyên liệu của bản địa để tạo nên món phá lấu Sài Gòn vô cùng đặc biệt”.

Những người trẻ trước năm 1975 chắc không ai không biết mâm phá lấu của ông Tàu già nằm giữa những xe gỏi đu đủ khô bò và đồ ăn vặt khác gần xe nước mía Viễn Đông. Hồi đó tôi là khách hàng thường trực nhưng chỉ nhìn thấy mâm phá lấu chứ không nhìn kỹ ông Tàu già, huống chi tên tuổi quê quán của ông. Tới bây giờ, ngàn trùng xa cách, tuổi tác không còn như xưa, tôi mới biết được “lý lịch” ông. Ông tên Lưu Đặng, người  gốc Quảng Đông sinh sống ở Campuchia. Năm 1970, Lon Nol ra lệnh “cáp duồn” người Việt, ông mới chạy qua Sài Gòn lánh nạn và mưu sinh bằng nghề gia truyền là món phá lấu khìa. Phụ ông có cô con gái nhỏ tên Lưu Kim Sanh, khoảng chục tuổi, chạy lăng xăng bán phụ với cha. Ông Lưu Đặng nay đã ra người thiên cổ, cô bé nhỏ nhít năm xưa nay thay nghề cha, vẫn ôm mâm phá lấu ngay chỗ cha cô đứng từ năm 1970 tới 1990. Xưa cũng như nay, mâm phá lấu của bà Sanh, nay đã cỡ trên 60 tuổi, gồm có lòng heo, bao tử, thú linh, dồi, phèo, gan, chả và ruột vịt. Nước chấm là tương đen. Bà Sanh hồi tưởng: “Hồi đó 9 tuổi là tui theo ba đi bán phá lấu dạo rồi. Ổng bán từ thời còn thanh niên. Khu này thời trước 1975 là một dãy xe bán đồ ăn vặt dạo. Nào là khô bò đu đủ, phá lấu, nước mía… Có ông già kia có quán tên “Nước mía Viễn Đông”, thế là mọi người đặt tên cho dãy ăn vặt khu chợ Cũ này theo quán ổng luôn. Nghe cũng hay hay”. Có lẽ bà Sanh nhớ lộn. Xe nước mía Viễn Đông nằm một phần trong nhà là  một cơ ngơi hái ra tiền. Cách đây vài năm, tôi có gặp bà chủ của cơ ngơi này, hiện sinh sống tại Montreal, có nhắc tới những ngày bà đếm tiền tới mỏi tay.

Trong hồi ức của một người Sài Gòn xưa, tôi đọc được một đoạn viết như sau.  “Ngược dòng thời gian những năm 70 thế kỷ trước, nam nữ thanh niên chiều cuối tuần, dung dăng dung dẻ dạo phố Sài Gòn thế nào cũng ghé góc đường Pasteur-Lê Lợi dừng xe uống ly nước mía. Trước tiệm nước luôn có mấy mâm phá lấu lòng heo, lòng gà, lòng vịt. Mỗi miếng lòng riêng lẻ được ghim sẵn một cây tăm, ăn bao nhiêu đếm tăm tính tiền bấy nhiêu. Ăn phá lấu kiểu này là ăn kiểng, ăn làm duyên.”

Những người muôn năm cũ, dù lưu lạc tại phương trời nào, vẫn nhớ tới góc đường ăn uống huyền thoại Lê Lợi-Pasteur này. Bà Sanh kể: “Có ông khách xưa định cư ở Pháp rồi mà mỗi lần về ăn cả chục dĩa phá lấu, gần 500.000 đồng. Ổng nói đi lâu mỗi lần về là nhớ mùi ruột vịt, thèm phá lấu chấm tương đen đến ứa nước miếng. Bán cho khách vậy thấy đã lắm”.

Người đi xa đã như vậy, người còn ở lại có thể vẫn còn thấy góc đường thần thoại này nhưng không còn được cái không khí xưa. Nhà văn Đỗ Duy Ngọc, vẫn bám trụ Sài Gòn, trong cuốn “Ăn Mà Không Chơi”, đã nhớ: “Trên khay để đầy phá lấu nhiều màu, toàn những màu sẫm là lòng heo, dồi trường, tim, lưỡi, lá sách, bao tử, gan, ruột non, phèo, phổi. Nói chung là toàn bộ đồ lòng của con heo lại thêm lòng gà đầy đủ gan, tim, ruột lòng thòng xoắn xoắn. Miếng phá lấu được cắt nhỏ lủm một miếng chưa đầy miệng, cắm một cây tăm. Trên khay còn có tương đen, tương đỏ. Khách lái xe xuôi đường Pasteur, thắng xe ghé lại, thích gì ăn nấy, cây tăm khi đã bỏ miếng phá lấu vào miệng thì chú Ba Tàu lại ghim một cây tăm khác vào cổ tay của ông, có sợi cao su buộc ngang. Khách ăn xong chú Ba căn cứ vào số tăm trên tay mà tính tiền. Miếng phá lấu ở đấy bây giờ nhớ lại thấy ngon lạ lùng. Miếng lá sách có gai như miếng khăn lông nhai sần sật, miếng ruột non, ruột già beo béo, miếng gan bùi bùi, miếng lưỡi, miếng phèo hơi dai càng nhai càng ngọt mùi… Gần nửa thế kỷ rồi, nhắc lại món phá lấu ở địa chỉ ấy bỗng dưng trên đầu lưỡi phảng phất cái mùi ngũ vị hương, cái mùi húng lìu, nước tương hòa lẫn vị béo, dai, bùi của phá lấu năm xưa. Nhắc để gậm nhấm kỷ niệm của một thời chở cô bạn gái ghé vào đây, hoặc đi với mấy thằng bạn, chấm chấm, nhai nhai sao đời nghèo mà vui thế”. 

Người đi xa, người ở gần, dù đã bao dâu bể, vẫn một lòng với khu Lê Lợi-Pasteur. Nỗi nhờ thành thơ. Như những vần thơ nhớ của Bác sĩ Lê Văn Lân:
Anh ơi, “Nước mía Viễn đông”
Hai ly chưa đã, mát lòng em luôn
Thêm đĩa bò bía chấm tương
Ăn kèm phá lấu, em thương anh nhiều.
 
                                                                                                   04/2025
                                                                             Website: www.songthao.com
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rượu có chi cay mà uống rượu phải đưa cay. Tôi phân vân về chữ “đưa cay” này. Gọi quách một cách trực tiếp như dân miền Nam: nhậu là phải có mồi. Như đi câu cá. Cá đớp mồi cá sẽ lên bàn nhậu. Nhậu một hồi sẽ “quắc cần câu”. Quắc cần câu là… xỉn, thân hình đi đứng liêu xiêu cong như cái cần câu cá. Xỉn quắc cần câu có biệt tài tự về tới nhà, lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy chẳng nhớ cái chi chi. Tại sao người quắc cần câu lại có biệt tài như người mộng du vậy? Mỗi khi con người trải nghiệm được một thứ mới, thùy trước trán sẽ lưu giữ những thông tin này theo dạng trí nhớ ngắn hạn. Sau đó hồi hải mã nằm ở não trước sẽ ghi những thông tin ngắn hạn này để tạo thành ký ức dài hạn. Đường truyền từ thùy trước trán tới hồi hải mã cần có những neuron thần kinh đặc biệt dẫn lối. Say xỉn khiến những neuron này không còn hoạt động. Vậy là xỉn xong ngủ dậy chẳng còn nhớ mô tê gì hết!
Tôi quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ, đủ thứ hạng: vang danh năm châu bốn biển, khiêm nhường quận lỵ làng xã, làng nhàng phường khóm, tổ dân phố. Đa phần không như tôi tưởng hồi còn trẻ, họ chả phải là những á thánh mà chỉ là những con người với đầy đủ cung bật tốt xấu. Có anh đóng rất tròn vai trò người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình, có chú chân chỉ hạt bột, cơm nhà quà vợ và … sòng phẳng đến độ, trong mắt nhìn bạn bè, là những gã keo kiệt, xem cắc bạc như bánh xe bò, tính toán chi li từng tách cà phê, từng điếu thuốc.
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất: Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng)
Hồi học đệ tứ (lớp 9 bây giờ) tôi có một thằng bạn tên Thái Hải, con trai bác sĩ kiêm thi sĩ Thái Can, nó giống tôi ở cái tính “ba nhe” (phương ngữ miền Trung chỉ những bọn trẻ rắn mắt, cứng đầu, nghịch phá), nhưng khác tôi 180 độ: hắn học cực giỏi, tôi cực dốt! Hơn sáu mươi năm, tôi lang bạt kỳ hồ, thỉnh thoảng về quê nhưng chỉ như khách trọ, chỉ lưng bữa nửa tháng lại ra đi, nên không có cơ hội gặp bạn bè xưa, cũng có nghĩa kể từ ngày còn oắt con cho đến bây giờ tôi chưa gặp lại người bạn thời niên thiếu. Nghe nói sau này hắn cũng là bác sĩ như ông thân sinh. Phải thôi, học giỏi như nó, không nối nghiệp cha mới lạ.
Có thể khẳng quyết, trong dòng văn học Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, chắn chắn Song Thao là nhà văn viết Phiếm uyên bác và mạnh mẽ. Ông đi nhiều, đọc nhiều, viết chuyên cần. Chỉ trên mười năm ông đã trình làng 31 tập Phiếm, mỗi tập trên 300 trang. Đề tài của ông đa dạng, bao quát, từ cây kim sợi chỉ đến vũ trụ bao la với lỗ đen, mặt trăng, sao hỏa, phi thuyền…, đến chuyện đời thường, những địa danh ông từng đặt chân đến. Chúng ta sẽ còn được đọc nữa những tập Phiếm sẽ ra trong tương lai.
Những năm trên dưới hai mươi, tôi xem văn chương là một thứ đạo, những cuốn sách, những thi phẩm không khác kinh thánh, các nhà văn, nhà thơ ngang bằng các giáo chủ. Tôi mê văn chương, tôn sùng những người tạo ra nó. Bước vào tuổi trung niên, say mê vẫn còn, nhưng bình tĩnh hơn, chừng mực hơn. Cho đến khi phần lớn đời mình gắn liền với sách vở như nghiệp dĩ, văn chương, ban đầu tôi viết vì nhu cầu nội tâm, muốn tỏ lộ những buồn vui đau đớn hài mãn… qua chữ nghĩa, trước tiên cho mình, thứ đến cho người, với mong muốn xẻ chia.
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.