Hôm nay,  

Măng

29/08/202500:00:00(Xem: 846)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.

Mang 2

Múa Trấn Thủ Lưu Đồn.

Nhiểu đêm trằn trọc tôi nghĩ về cái duyên của mình với măng và thắc mắc tại sao. Chẳng lẽ vì bài thơ “Trấn Thủ Lưu Đồn” thuộc nằm lòng từ ngày nhỏ. Bài thơ khuyết danh, lạc mẹ như ca dao, được các soạn giả Trần Trọng Kim, Nguyễn văn Ngọc, Đặng Đình Phúc và Đỗ Thận mang vào cuốn “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” lớp Sơ Đẳng cho lớp nhỏ chúng tôi thời đó ê a học thuộc lòng.

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai!
Miệng ăn măng trúc, măng mai,
Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng?
Nước giếng trong, con cá nó vẫy vùng...

Tuổi nhỏ hay có những suy nghĩ rất ngây ngô. Ngày đó, tôi tưởng tượng anh lính đóng trên đồn non cao, giữa rừng tre trúc, tối ngày ăn độc một món măng mà thương hại vu vơ.

Cũng có lẽ vì bài nhạc trong điệu múa “Trấn Thủ Lưu Đồn” mà dân Chu Văn An chúng tôi ngày đó coi như “gia tài” truyền thống của trường. Bất cứ buổi văn nghệ nào của nhà trường cũng phải có mục…trấn thủ lưu đồn. Ngày nay trong các cuộc họp mặt của dân Chu Văn An hải ngoại khắp nơi tiết mục múa “Trấn Thủ Lưu Đồn” cũng vẫn là cái đinh của buổi văn nghệ. Hầu như học sinh Chu Văn An nào cũng có thể hát ít nhất là vài câu đầu của bản nhạc do Phạm Duy soạn theo nhịp đuổi trong dịp chính phủ Việt nam Cộng Hòa phát động phong trào chấn hưng văn hóa trong thập niên 1960.

Đất ngài đây thanh lịch (.. thanh lịch…)
Đất có hữu tình (.. đất có hữu tình…)
Có đường vô sảnh (ơ) tới dinh quan lưu đồn
Ba năm bác còn đương trấn
Tình dẫu cái mà tình ơi ! Ơi ờ ơi !

Trấn thủ lưu đồn (Ứ ừ ư ứ ừ ứ …Ứ ừ ư ứ ừ ứ)
Trấn thủ lưu đồn ngày thời canh điếm, sớm tối dồn việc quan
Anh chém cành tre còn như ngả gỗ
Tình dẫu mà tình ơi…ơi ờ ơi …
Ngả gỗ trên ngàn (Ứ ừ ư ứ ừ ứ …Ứ ừ ư ứ ừ ứ)
Ngả gỗ trên ngàn than thân rằng khổ, biết phàn nàn cùng ai
Anh hãy phàn nàn những trúc cùng mai
Có cái cây măng nứa, có cái cây ngô đồng

Măng là “lộc” của núi rừng miền cao, nơi các anh lính thú ngày xưa trấn đóng. Trong bài viết “Thơm Ngon ‘Chồi Rừng’ vùng Tây Bắc”, ký giả Hương Thu đã mô tả: Tháng Ba, tháng Tư về, khi hoa ban, hoa trẩu nở trắng sườn đồi Tây Bắc cũng là lúc các loại cây rừng đâm chồi, nảy lộc. Dịp này, măng rừng Lào Cai như măng sặt, măng vầu... hay các loại mầm, chồi như mầm thảo quả, măng riềng bước vào mùa rộ. Hầu như ở khắp các góc chợ miền núi đều có thứ đặc sản này. Người dân vùng cao Lào Cai gọi đây là các loại "lộc rừng" hay "chồi rừng" bởi từ lâu chúng được biết đến như một loại đặc sản độc đáo, mang trong mình hương vị tự nhiên và đặc trưng của vùng đất này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của du lịch, món ăn được chế biến từ "chồi rừng" của đồng bào các dân tộc Lào Cai để lại ấn tượng khó quên với du khách”.

Tôi chưa bao giờ leo tới vùng cao nơi núi rừng ngập tràn các loại tre trúc nhưng gần đây rất tò mò về núi rừng và các cô gái bản xinh đẹp qua các video của các youtuber chuyên khai thác vẻ đẹp cao nguyên. Các anh này thường theo các cô gái thuộc nhiều sắc tộc khác nhau như Tày, Thái, Mường đi đào măng về nướng ăn. Họ đào những mầm măng mới nhú, mang về nướng trên những bếp củi tới cháy xém, chồi măng quắt lại. Sau đó họ bóc lớp vỏ ở ngoài tới lớp măng ở trong trắng nõn, chấm với hỗn hợp muối, ớt, lá gừng, mắc khén, tỏi, ăn ngon lành. Ăn xổi như vậy có nguy hiểm không vì ai cũng biết trong măng có nhiều độc tố.

Mang 3

Măng vầu ngọt bên trái, măng vầu đắng bên phải.

Măng tươi chứa một lượng đáng kể chất cyanogenic glycoside, còn gọi là taxiphyllin, có thể giải phóng hydrogen cyanide (HCN), một chất độc. Ngộ độc hay không, chỉ khoảng nửa tiếng sau là biết liền. Có thể buồn nôn, đau đầu, chóng mặt. Nặng hơn thì co giật, suy hô hấp hoặc quay cu lơ hết thuốc chữa.
Tuy nhiên Taxiphyllin dễ tan trong nước và bị phân hủy khi đun sôi. Người dùng măng thường luộc kỹ và thay nước vài lần là có thể loại bỏ phần lớn độc tố này. Nhiều người có kinh nghiệm trong việc loại bỏ độc tố của măng còn chỉ cho chúng ta nhiều cách khử độc tố hữu hiệu hơn với các chất khác nhau. Thay vì nước, chúng ta có thể luộc với lá rau ngót, nước vo gạo, ớt, nước vôi. Khi luộc nên mở vung để chất độc bay hơi. Đây là cách các bà nội trợ thường làm trước khi nấu, muối chua hoặc phơi khô măng. Nếu chế biến măng đúng cách thì đây là một món ăn rất bổ ích cho cơ thể vì măng rất ít đường, ít calorie, giàu proteine, ít cholesterol, giàu kali. Măng rất phù hợp với những người ăn chay, tốt cho tim mạch, tốt cho huyết áp, kiểm soát cholesterol, tăng cường hệ miễn dịch, giúp giảm đau, giảm nguy cơ ung thư, chữa bệnh đường hô hấp và tiêu hóa. Tuy nhiên phụ nữ mang thai, người mắc bệnh thận, đau dạ dày, đau bệnh gout không nên ăn măng.

Chỉ dẫn của các nhà khoa học hợp với ý tôi hết sức. Tôi thường ăn măng khi nó đã yên vị trong các bát bún măng, măng kho hay miến măng. Măng trong các món nấu có thể là măng tươi hoặc măng khô. Măng tươi lại được chia ra hai loại: măng củ và măng lá. Măng củ đặc ruột thường được thái lát mỏng khi chế biến, măng lá được xé thành từng sợi. Măng tươi và măng khô có vị khác nhau. Tôi thích măng khô hơn.

Với dân ăn măng loại dễ dãi như tôi thì măng là măng, nhưng dân sành sỏi thường phân biệt nhiều loại măng: măng tre, măng nứa, măng vầu, măng sặt, măng giang. Thiệt rắc rối sự đời. Nhưng khi yêu cần phải tìm hiểu người yêu từ tông chi họ hàng thì dân yêu măng cũng nên tìm hiểu kỹ càng thứ mình bỏ vô miệng là cái chi chi.


Măng tre là gọi gộp lại tất cả các loại măng từ cây tre. Măng tre có dạng hình nón, phủ nhiều vòng nang cứng màu nâu, đầu xẻ tua ngắn. Phân biệt chi li ra thì có măng tre rừng, măng tre gai (còn gọi là măng lay), măng tre diễn, măng bát bộ (còn gọi là măng mai). Loại chúng ta thường ăn bán đầy ngoài chợ là măng bát bộ.

Măng le được lấy từ cây le, một loại cây thuộc họ tre nứa. Cây le không có gai, thân rất dẻo, sanh trưởng mạnh mẽ, lan rộng nhanh, mọc thành bụi, có nhiều tại các vùng đất đỏ bazan, là loại măng ngon nhất trong các loại măng tre măng trúc. Măng le đặc ruột, vỏ xanh nõn, vị ngọt bùi nhẹ và thơm, giòn, không bị chát hay đắng.

Măng nứa là loại măng nhỏ, kích thước rất khiêm nhường, chỉ bằng ngón chân cái hoặc nhỉnh hơn một chút, có màu trắng nõn, khi luộc lên có màu vàng nhạt. Măng nứa ngon hơn măng tre nên giá đắt hơn. Các bà nội trợ loại sành sỏi thường chọn những cây măng nứa dài chừng nửa gang tay tới một gang, ngọn có ít lá, đặc, có đủ phần ống. Đó là măng non, ăn giòn và không có sơ như măng già. Nếu làm món măng nhồi thịt thì nhất định phải dùng măng nứa có ống măng nguyên vẹn, không vỡ nát, dễ nhồi thịt vào bên trong.

Măng vầu là loại măng rừng thường được bán nguyên củ tươi còn bẹ. Khi mua phải cẩn thận vi măng vầu có hai loại đối chọi nhau: măng vầu đắng và măng vầu ngọt. Măng vầu đắng không dễ ăn. Càng già càng đắng. Nhiều khi đắng như thuốc bắc khiến nhiều người chịu thua. Khi mua nên hỏi người bán cho rõ chuyện đắng ngọt kẻo tiền mất mà miệng bơ vơ. Nếu biết chọn thì coi phần bẹ lá. Măng vầu ngọt có lớp bẹ thuôn và trơn trong khi măng vầu đắng có lớp bẹ đan xen nhau.

Măng sặt có kích thước nhỏ, cỡ chuôi liềm, thoa dài và thẳng, vị hơi đăng đắng. Đây là loại măng đặc sản của núi rừng Tây Bắc như Lào Cai, Yên Bái, Sơn La được nhiều người ưa thích vì vị giòn, thơm, bùi.

Măng lồ ô là cây non của loại tre lồ ô, có nguồn gốc từ Ấn Độ. Lồ ô thường mọc thành rừng tại phía Bắc, Trung và vùng Tây nguyên nước ta. Măng lồ ô có kích thước to tròn, bên trong có các khoảng rỗng. Thịt màu trắng, thân dưới nhiều và cứng.

Măng giang được coi là ngon hơn măng tre và cho người ăn cảm giác mềm sần sần rất thú vị. Măng giang có lớp vỏ rất cứng, cứng nhất trong họ nhà măng nên khi bóc ra rất vất vả. Biết vậy nên thường người bán lột vỏ trước.

Có lần tôi được một người bạn đi Việt Nam về tặng cho một gói măng lưỡi lợn. Anh cho biết măng này rất quý, chỉ có tại miền núi rừng phía Bắc như Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang. Đây là loại măng có thân măng to, dẹt và dài khoảng từ 20 tới 30 phân, có màu vàng nhạt và rất giòn. Măng lưỡi lợn là loại măng được đào từ củ măng non khi vừa mới nhú khỏi mặt đất. Gọi là măng lưỡi lợn vì nó có hình dáng như chiếc lưỡi lợn, được coi là một đặc sản độc đáo, hương vị thơm ngon lại chứa nhiều giá trị dinh dưỡng. Măng này là nguồn cung cấp vitamin và khoáng chất gồm vitamin A và C, calcium, sắt và chất xơ. Lợi ích sức khỏe của măng lưỡi lợn gồm: hỗ trợ tiêu hóa, tăng cường hệ miễn dịch và cung cấp năng lượng giúp chuyển hóa thức ăn. Anh bạn tôi khuyến cáo nên hầm măng với chân giò ăn vừa ngon vừa bổ, cả ông lẫn bà đều hài lòng. Hài lòng hay không, tôi chưa biết nhưng măng lưỡi lợn khô anh bạn tôi mang về là một cục cứng ngắc, mùi nồng khó chịu, phải bọc trong nhiều lớp bao nhựa mới đỡ mùi. Chuyện làm sao biến cái thứ vang cửa vang nhà này thành món măng hầm chân giò là một chặng đường dài. Gói măng nằm lăn lóc trong tủ chứa thực phẩm khô tại nhà tôi một thời gian cho tới khi một bà bạn rất chuyên cần và thành thạo việc bếp núc tới chơi và phát hiện ra…của quý. Tôi hân hoan tặng bà trong sự vui mừng của cả người cho lẫn người nhận. Một ngày đẹp trời, bà mời vợ chồng tôi tới nhà thưởng thức măng lưỡi lợn. Bà nấu món hẩu của tôi: bún măng vịt. Phải công nhận ngon thiệt ngon. Miếng măng giòn, thơm, ngọt, ăn măng mà cứ tưởng ăn thịt.

Mang 4
Bún măng gỏi vịt
Nếu một ngày nào đó bạn bắt gặp tôi ngồi trước tô bún măng vịt tại nhà hàng, xin đừng hỏi thứ măng trong bát là măng gì. Hỏi như vậy là hại nhau. Với tôi, măng là măng. Măng nào cũng sêm sêm hết. Có biết phân biệt đâu. Viết về các loại măng một cách sành sỏi như trên là nhờ hồng ân của ông Google trên mạng. Ăn bất cứ thứ gì, với tôi, chỉ có một tiêu chuẩn: ngon hay không ngon. Ăn là thưởng thức của ngon vật lạ trời dành cho con người nên ngon là chính. Nhiều bạn bè khuyên tôi nên ăn thứ này thứ kia tốt cho sức khỏe, tôi chỉ ừ hử cho bạn vui lòng. Trong thâm tâm tôi nghĩ ăn có phải là uống thuốc đâu mà bổ chỗ này khỏe chỗ kia. Bạn ăn của tôi là ông Trường Kỳ, người đề ra…triết thuyết “Sống để mà ăn”. Cái chi ngon là cứ việc đớp hít thả dàn, hậu quả ra sao để tương lai lo, hiện tại chỉ cần biết ngon miệng hay không. Chấm hết!
 
                                                                                                    08/2025
                                                                                Website: www.songthao.com
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.