Hôm nay,  

Ca Từ

17/10/202500:00:00(Xem: 967)

Diem lien
Hàn huyên với Diễm Liên
Trong một đêm nhạc thính phòng trình bày nhạc Từ Công Phụng và Ngô Thụy Miên được tổ chức tại Vancouver, Canada, ít năm trước đây với sự có mặt của hai nhạc sĩ, tôi có tham dự. Phần đầu các ca sĩ hát nhạc của họ Từ, phần sau nhạc của họ Ngô, có nghỉ giải lao ở giữa. Trong giờ giải lao, tôi vào sau sân khấu để hàn huyên với ca sĩ Diễm Liên. Chúng tôi đang nói chuyện thì nhạc sĩ Ngô Thụy Miên đi ngang qua, nói với Diễm Liên: “Nhớ hát đúng lời nhạc nhé!”. Diễm Liên le lưỡi, cười. Tôi giữ ý đi ra cho cô…ôn bài.

Ca từ của một bản nhạc là công trình tim óc của một nhạc sĩ, được trau chuốt không kém phần nhạc. Nhà thơ Nguyễn Đình Toàn  đã cho in cuốn sách “Thơ & Ca Từ” được ra mắt tại nhà sách Tự Lực vào ngày 23/4/2022 vừa qua. Phần ca từ được in không có nhạc. Điều này chứng tỏ phần ca từ của một bản nhạc là những gửi gấm thiết tha của tác giả vào tác phẩm, được họ rất trân trọng. Có lẽ chúng ta nên dừng lại để nói chút đỉnh về ca từ của Nguyễn Đình Toàn. Chúng ta biết tới họ Nguyễn qua văn xuôi và thơ. Ít ai biết ông đã học và mê  nhạc từ lúc còn nhỏ. Mộng của ông là thành nhạc sĩ nhưng ông đã đi lạc vào văn chương. Ông làm thơ từ hồi nhỏ nên ca từ của ông cũng là thơ. Nhạc được ông cho phổ biến rất hạn chế vì theo ông, không phải ai cũng cưu mang được nhạc do ông sáng tác. Vậy mà nhạc của ông cũng bị chép sai lời. Trong bài viết “Xuân Cười Trên Căn Gác Nhà Nguyễn Đình Toàn”, tác giả Trịnh Thanh Thủy đã chuyện trò với ông về những ca từ bị ghi sai của ông. Tôi cho ông biết trên mạng họ để lời bài hát của ông rất nhiều nhưng để sai lời cũng lắm. Tôi hỏi ông vài chữ trong bài “Chiều Trong Tù” mà tôi nghĩ ca sĩ đã hát sai như “Trong đau thương tóc người cứng khô.” Tôi hỏi:“’cũng khô,’ phải không chú?" Ông bảo: “Đúng là ca sĩ hát sai, ‘cũng khô’ mới đúng. Trong tù suốt 365 ngày—một năm, lúc nào trong đầu cũng như có lửa, muốn phụt khói ra khỏi đầu. Không có tóc nào chịu nổi nên cái tóc nó cũng khô rốc đi. Còn chữ ‘Vầng mây trắng’ không đúng. ‘Vồng mây trắng’ mới đúng. ‘Vồng mây’ là loại mây nhẹ hơn, mây không tạo thành ‘vầng’. Họ viết: ‘Ta nghe ra trong niềm xót xa,’ ‘Ta nghe ra trăm niềm xót xa’ mới đúng”. Ông cắt nghĩa thêm câu ‘Tay quơ ngang vết hằn năm tháng’ bằng cách giơ tay lên quơ ngang vầng trán, và vầng trán ông hiện ra với những nét nhăn ngày tháng đã ghi dấu trên tuổi tác người”. Còn câu cuối, ‘Cho đêm mù, một cơn đau dài’ bị ghi sai là ‘Cho đêm mờ, một cơn đau dài.’ Chú dùng chữ ‘mù’ mạnh hơn chữ ‘mờ,’ vì nếu ‘đêm mờ’ nghe nó yếu, không đủ mạnh.”

TCS

Danh ca Khánh Ly và nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.


Về phần ca sĩ, người thưởng ngoạn chúng ta cũng phải hiểu cho họ nếu họ hát sai lời. Cứ tưởng tượng họ phải thuộc lời của hàng trăm bản nhạc,  nghe đã thấy ngán ngẩm. Một người từ xưa tới nay không bao giờ thuộc hết lời của bản nhạc như tôi, thấy còn kinh hoàng hơn nữa. Những bản nhạc được gọi là nhạc quê hương tương đối có lời nhạc xuôi theo câu chuyện còn dễ nằm lòng, còn những bản nhạc thính phòng ca từ kiêu sa viết theo cảm hứng của tác giả, các ca sĩ khó lòng mà theo nổi. Mỗi chữ là một đánh đố cho ca sĩ. Nếu bài nhạc là một bài phổ thơ thì còn chết một cửa tứ nữa. Thí dụ như bản “Mộng Dưới Hoa”, nhạc sĩ Phạm Đình Chương phổ bài thơ “Tự Tình Dưới Hoa” của nhà thơ Đinh Hùng trong đó có câu: ‘Mắt em lả bóng dừa hoang dại’. Câu này thường bị các ca sĩ hát thành: ‘Mắt em là bóng dừa hoang dại’. Chữ “lả” diễn tả hình ảnh nên thơ của đôi mắt người thiếu nữ đẹp như bóng dừa rủ xuống. “Lả” hát thành “là” mất toi hình ảnh nên thơ này. Nhạc sĩ Phạm Đình Chương rất không vui về chuyện hát sai lời này. Ông cũng chính là ca sĩ Hoài Bắc,  nên mỗi khi hát tới câu này, ông đột ngột dừng lại và nói: “Lả bóng dừa hoang dại, các bạn ạ, đừng hát “là bóng”, mất đẹp của câu thơ đi”. Và ông hát tiếp!

Nguyen Vu

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ.


Chẳng phải chỉ có thơ phổ nhạc, bản nhạc “Xóm Đêm” của ông, ra đời vào thập niên 1950, lời do chính ông viết, có câu: ‘Qua phên vênh có hai mái đầu…’. Các ca sĩ trẻ ít người biết “phên” là cái gì nên tự ý đổi thành “Qua chênh vênh có hai mái đầu”. Thời của họ, những tấm phên được đan bằng tre dùng để ngăn làm vách của những căn nhà nghèo ở Sài Gòn thập niên 1950, bị vênh lên vì mưa nắng lâu ngày tạo thành một khe hở, đâu còn nữa. Họ làm sao có thể tưởng tượng được cảnh nhạc sĩ nhìn qua khe phên vênh thấy hai mái đầu chụm lại dưới ánh đèn “hắt hiu vàng ánh điện câu”. Tôi ngờ rằng nhiều ca sĩ trẻ cũng không biết “điện câu” là thứ điện chi.

Nguyen Dinh Toan

Nhà thơ/ Nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn (Hình: Trịnh Thanh Thủy)


Khoảng cách thời gian giữa khi bản nhạc được sáng tác và bản nhạc được ca sĩ hát lên cũng làm các ca sĩ lúng túng. Nếu chịu khó tìm hiểu tác giả và tác phẩm trước khi trình diễn, họ có thể khắc phục được lỗi hát sai lời này nhưng làm sao đòi hỏi được như vậy khi họ phải hát cả chục bài trong một buổi trình diễn. Chỉ quy lỗi cho các ca sĩ cũng tội cho họ trong khi các bản nhạc xưa không được ghi chép cẩn thận từ gốc để có thể dựa vào mà chỉnh sửa. Với mạng xã hội ngày nay cung cấp mọi thứ kể cả ca từ của các bản nhạc một cách cẩu thả từ thế hệ này qua thế hệ khác dẫn tới việc lời nhạc được truyền bá sai lạc làm các ca sĩ hát sai lời. Nhạc sĩ Quốc Dũng đã trăn trở với tình trạng ca từ năm cha ba mẹ này. Ông cho biết trước đây các bản nhạc được phổ biến dưới hình thức tờ bướm in lời do chính tác giả viết và chính tác giả phổ biến nên ca từ bài hát ít khi sai. Những năm gần đây, các nhà xuất bản gom nhiều bản nhạc in thành tuyển tập. Họ làm ăn thiếu nghiêm chỉnh khi giao cho một người thu thập và sao chép lại. Nguồn thu thập của họ có khi không nguyên gốc, không phải văn bản từ chính tay tác giả nên chuyện sai lời là dễ hiểu.

Không chỉ các ca sĩ trẻ hát sai lời, các ca sĩ gạo cội cũng hát sai như điên. Ca sĩ Quang Dũng khi ca bài “Lá Đổ Muôn Chiều” của Đoàn Chuẩn và Từ Linh đã hát: ‘Còn nhớ phương nào hoa đã rơi’ thành ‘Còn nhớ hôm nào hoa đã rơi’. Hát “phương nào” thành “hôm nào” là đổi không gian thành thời gian. Viết tới đây tôi nhớ tới một lời nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy: “Đừng cho không gian đụng thời gian”!

Nguyen Dinh Toan 2

Bìa cuốn “Thơ và Ca Từ » của Nguyễn Đình Toàn.


Khánh Ly hát sai lời nhạc Trịnh Công Sơn là điều ít ai nghĩ có thể xảy ra. Vậy mà có. Trong một buổi tọa đàm vào năm 2018, Khánh Ly đã thừa nhận như vậy. Bà cũng cho biết là khi sinh thời, nhạc sĩ họ Trịnh chưa bao giờ có những yêu cầu với những người hát nhạc của mình. Ông thích mọi người biểu diễn nhạc của ông theo cách riêng. Với ông, họ hát nhạc của ông đã đủ làm ông hạnh phúc. Ca sĩ Khánh Ly đã từng nói: “Các ca sĩ bây giờ hát nhạc Trịnh theo tâm tư của họ, cảm xúc của họ lúc đó. Mình không thể chê: cô này phải hát thế này, cô kia phải hát thế kia. Cái khổ của người khi hát quên lời là bị trách móc. Tôi hát sai thì không ai nói gì cả. Đấy là bởi tấm lòng thương cảm của mọi người đối với tôi, dành cho tôi nên không ai trách tôi hát sai, dù tôi hát sai lời nhiều. Có ca sĩ trẻ hát cùng tôi, họ hát đúng còn tôi hát sai nhưng khán giả vẫn mặc định… họ hát sai, tôi hát mới đúng. Chúng ta hãy thông cảm, hiểu cho những ca sĩ… hát đúng bây giờ”.


Nhạc sĩ Văn Cao từng gọi nhạc Trịnh Công Sơn là “ca thơ”. Ca từ của ông không phân biệt được đâu là ca đâu là thơ. Ông nổi tiếng là rất tinh tế trong ca từ, lời phức tạp, nhiều tầng nghĩa. Ông thường dùng những từ rất độc đáo và lạ lẫm. Ca từ của ông riêng một cõi, không nhầm với ca từ của bất cứ ai khác. Trong bài “Chiều Một Mình Qua Phố”, ông viết ‘khi nắng khuya chưa lên’ nhưng bị hát nhầm là ‘khi nắng mưa chưa lên’. Nghe đã thấy…nhột. Trong bài “Quỳnh Hương” có câu ‘nụ cười khúc khích trên lưng’ vẽ lên một hoạt cảnh rất tình tứ và dễ thương của một thiếu nữ áp trên lưng người yêu, cười khúc khích.  Vậy mà có ca sĩ hát thành ‘nụ cười khúc khích trên môi’. Nghe rất tầm thường, mất đi một hình ảnh vừa tinh nghịch vừa dễ yêu. Bài “Một Cõi đi Về”, câu hát ‘ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì’ bị đổi thành ‘thổi buốt’ hay tệ hơn, ‘thổi xuống’ xuân thì. Một câu trong bài “Diễm Xưa”: ‘Nhỡ mai trong cơn đau vùi’ bị đổi thành ‘Nhớ mãi trong cơn đau vùi’ làm mất đi một câu trách móc nhẹ nhàng của tác giả. Chữ ‘con tinh’ trong bài “Một Cõi Đi Về”: ‘con tinh yêu thương vô tình chợt gọi’ nhiều ca sĩ không hiểu đã đổi thành ‘con tim’. “Con tinh” là một danh từ rất Huế chỉ những cô gái nhỏ, xinh xắn và nghịch ngợm bị người thân mắng yêu là “đồ yêu tinh”. Khi bị đổi thành ‘con tim’ thì tầm thường, chẳng ra làm sao. Nhưng vui nhất là  câu ‘em đi qua chuyến đò, thấy con trăng đang nằm ngủ’ trong bài “Biết Đâu Nguồn Cội” bị trần tục hóa thành ‘thấy con trâu đang nằm ngủ’!

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ vừa ra đi vào ngày 24/9/2025, khi tôi đang viết bài này, là nạn nhân khá cay đắng. Bài hát nổi tiếng nhất của ông “Bài Thánh Ca Buồn”, ra đời vào năm 1972, bị sửa lời lia chia. Trong suốt nửa thế kỷ, ông rất rầu rĩ với đứa con bị hành hạ của mình. ‘Rồi một chiều áo trắng thay màu’ là một câu trong nhạc phẩm đã bị hát thành: ‘Rồi một chiều áo trắng phai màu’. Chỉ một chữ “thay” thành “phai” đã làm mất ý nghĩa của câu nhạc. Ông giải thích: “Áo trắng thay màu có nghĩa chiếc áo trắng thơ ngây của cô nữ sinh ngày nào giờ đổi thay sang một màu áo khác khi ‘em qua cầu xác pháo theo sau’”. Chuyện đổi cả một cuộc đời đã trờ nên vô nghĩa khi cho áo trắng “phai” màu. Áo trắng thì sao phai màu được. Ông đã từng tức giận khi nói với một phóng viên: “Áo trắng phai thành màu gì? Màu…cháo lòng hả?”. Câu ‘Rồi những đêm thế trần đón Noel’ bị đổi thành: ‘Rồi những đêm thánh đường đón Noel’. Nghe có vẻ hợp lý nhưng không hợp với ý tác giả. Nhạc sĩ cho biết: “Với tôi, Noel từ lâu đã không còn là một lễ hội tôn giáo dành riêng cho người theo đạo nữa. Noel trở thành lễ hội chung của mọi người. Đó là ngày hội lớn được đón nhận bởi mọi quốc gia, mọi sắc tộc, mọi tầng lớp xã hội”.  Vậy nên Noel không gói gọn trong “thánh đường” mà trở thành niềm vui của “thế trần”. Chưa hết. Ông cho biết: “ Câu tôi viết là Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt, nhưng thường ca sĩ lại hát Long lanh sao trời đẹp thêm đôi mắt. Hay ở câu: ‘Cùng nhau quỳ dưới chân Chúa cao sang’, vì trong đạo Công giáo có lễ hôn chân Chúa, nhưng nhiều ca sĩ lại hát không đúng thành ‘Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang’. Một câu khác, tôi viết ‘Ôi giọng hát em mênh mang buồn’ thì có người lại hát ‘mênh mông buồn’.

Hoai Trun

Từ trái: Hoài Bắc, Thái Thanh, Hoài Trung.


Kể ra thì còn nhiều câu hát bị sửa lời như trong ca khúc “Đêm Đông” của nhạc sĩ Nguyễn văn Thương, câu ‘Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống’ bị đổi thành ‘Chiều chưa đi màn đêm buông xuống’. Trong bản “Riêng Một Góc Trời”, nhạc sĩ Ngô Thụy Miên có câu: ‘Nụ hôn đã mơ say, bờ môi ướt mi cay, nay còn đâu’. Chữ “mơ’ rất đắt, khi ca sĩ đổi thành “mê say”, mất hết vẻ đẹp tới rợn da gà của chữ “mơ”. Bài “Dấu Tình Sầu” cũng của Ngô Thụy Miên, ‘Ngàn năm cho giá băng hồn / Tuổi buồn gầy lên màu mắt’. Chữ “gầy” nơi đây cũng rất đắt. Vậy mà người ta đã bán rẻ chữ “gầy” bằng chữ “nầy” khiến chúng ta chỉ muốn bưng tai khi nghe. Nhạc sĩ Phạm Duy, bậc thầy về ca từ, trong bài “Tuổi Thần Tiên” ông viết: ‘Cỏ trinh nữ tắm trong phấn thông mờ / Khi mưa về, e thẹn cỏ hoa’. Vậy mà nỡ lòng nào hát “em” thay vì “e” làm sai lạc hết chủ từ. Cỏ trinh nữ e thẹn chứ không phải một “em” bá vơ nào đó xông vào e thẹn.

Tôi nhớ khoảng cuối thập niên 1980, ca sĩ Quỳnh Giao khi đó còn ở thủ đô Washington D.C., đã có ra vài cassette mang tên “Kỷ Niệm”. Điểm đặc biệt là trước mỗi bài hát, cô mời tác giả bài hát nói một vài câu giới thiệu. Nhạc sĩ Vũ Thành chắc bị sửa lời bài hát nhiều nên giọng nói có vẻ bực bội. Ông nói đại khái: ca sĩ hát một bản nhạc như đọc một bức thư. Tác giả viết thế nào, cứ thế mà đọc, không được sửa chữ chi cả. Vậy mà có những danh ca, tới đây ông nhấn mạnh: những “đại danh ca”, vẫn thích sửa lời của tác giả khi trình bày bản nhạc. “Đại danh ca” Thái Thanh đã có lúc sửa lời nhạc của ông anh rể Phạm Duy. Bài “Cho Nhau”, tác giả viết: ‘Cho nhau ngòi bút cùn trơ / Cho nhau, cho những câu thơ tàn mùa / Cho nốt đêm mơ về già’. Thái Thanh hát: ‘Cho nhau ngòi bút còn lưa /…./ Cho nối đêm mưa về già’. Phạm Duy viết: “Cho nhau thù oán hờn ghen / Cho nhau một cõi âm ty một miền’. Thái Thanh hát: ‘Cho nhau một nỗi âm ty một miền’. Tác giả Nghiêm Nguyễn giải thích: “’Lưa’ là chữ cổ, nghĩa là “còn sót lại”, nhưng mang một âm thanh u hoài, luyến lưu, tiếc nuối. Dĩ nhiên “ngòi bút cùn trơ” mang ý nghĩa chính xác hơn, nhưng nghe không thi vị bằng “ngòi bút còn lưa”. “Cho nốt đêm mơ về già” có nghĩa là cho hết đi, không còn chừa gì cả, nhưng “Cho nối đêm mơ về già” nghe sâu nặng, thủy chung hơn. Chữ “nỗi” mang ý nghĩa sâu xa, hay hơn chữ “cõi”. Vì từ “cõi” mang một ý niệm hữu hình về không gian, tuy có vẻ bao la nhưng hữu hạn. Còn “nỗi” là một ý niệm vô hình, diễn tả tâm trạng con người, tưởng chừng như nhỏ bé so với “cõi” không gian, nhưng thật ra mông mênh, vô tận lòng người”.

Không nghe nói phản ứng của bậc thầy chữ nghĩa Phạm Duy nhưng coi bộ ông không thể không gật đầu!
                                                                                                     
10/2025                                                                                  
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thứ nhất "Bá nhân bá tánh",/ Trời sinh ta cá tánh khác nhau / Người thích ở chốn rừng sâu, / Kẻ tìm đến chốn đâu đâu cũng người. / Chấp nhận người khác ta thôi, / Mỗi người một kiểu đừng chơi... "độc tài".
Họ một nam và một nữ, dạng bé nhỏ và đen đủi vào khoảng tuổi đôi mươi trong ngoài. Người thanh niên cởi trần và đeo gùi, cả hai đều chân đất và cô gái mặc cái áo len màu mè, rách ở nhiều chỗ. Họ không vào sân nhà mà chỉ đi ngang phía ngoài vài mươi thước. Trong ký ức của tôi sau này một thời gian dài là người thanh niên có đeo cung tên nhưng sự thật có lẽ anh chỉ có 1 cái rựa vác trên vai hay là anh không có đến con dao, tấc sắt đi rừng. Nhưng chi tiết cung tên này rất là quan trọng mặc dù nó được bịa đặt trong đầu của một thằng bé ba tuổi.
Nhật bản ngoài các kỹ nghệ này kia như ta biết, còn có kỹ nghệ “kyabakura” chiếm 1 tỷ lệ đáng kể của tổng sản lượng quốc gia. Đó là 1 dạng “bia ôm” nhưng chính xác hơn là “bia tâm sự vui buồn” vì khách vào đó không hẳn là để ôm ai mà là nhu cầu tinh thần muốn chia sẻ của đủ hạng đàn ông các cỡ. Tại các quán này bạn uống bia và có người ngồi nghe bạn kể chuyện về mình. Nhân viên phục vụ tại đây vì vậy là chuyên gia nghe chuyện. Theo 1 thăm dò thì họ sếp hạng những thứ đàn ông đáng chán và vô duyên nhất họ phải chịu đựng như sau.
Tôi đến Pháp non ba mươi năm trước do lời mời của một người bạn. Anh ta cũng là họa sĩ. Như hầu hết các đồng nghiệp cùng chủng tộc, không mấy người sống bằng nghề cầm cọ, họ phải có một việc làm nào đó, tuy phụ nhưng lại là chính, nuôi thân, lo cho gia đình, vợ con. Ngày mới vào Đại học Mỹ thuật, như tất cả những người chọn hội họa làm hướng tiến thân, bạn tôi nuôi nhiều tham vọng. Ra trường sẽ sáng tác, sẽ triển lãm, sẽ bán được tranh, báo chí sẽ ngợi khen, vừa có tiếng vừa được miếng. Thế nhưng ba năm miệt mài vẽ, triển lãm, chả ma nào thèm để ý, tranh bán không ai mua, đã đành, truyền thông cũng ngoảnh mặt, có chăng chỉ vài ba dòng thông tin. Chấm hết!
Rượu có chi cay mà uống rượu phải đưa cay. Tôi phân vân về chữ “đưa cay” này. Gọi quách một cách trực tiếp như dân miền Nam: nhậu là phải có mồi. Như đi câu cá. Cá đớp mồi cá sẽ lên bàn nhậu. Nhậu một hồi sẽ “quắc cần câu”. Quắc cần câu là… xỉn, thân hình đi đứng liêu xiêu cong như cái cần câu cá. Xỉn quắc cần câu có biệt tài tự về tới nhà, lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy chẳng nhớ cái chi chi. Tại sao người quắc cần câu lại có biệt tài như người mộng du vậy? Mỗi khi con người trải nghiệm được một thứ mới, thùy trước trán sẽ lưu giữ những thông tin này theo dạng trí nhớ ngắn hạn. Sau đó hồi hải mã nằm ở não trước sẽ ghi những thông tin ngắn hạn này để tạo thành ký ức dài hạn. Đường truyền từ thùy trước trán tới hồi hải mã cần có những neuron thần kinh đặc biệt dẫn lối. Say xỉn khiến những neuron này không còn hoạt động. Vậy là xỉn xong ngủ dậy chẳng còn nhớ mô tê gì hết!
Tôi quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ, đủ thứ hạng: vang danh năm châu bốn biển, khiêm nhường quận lỵ làng xã, làng nhàng phường khóm, tổ dân phố. Đa phần không như tôi tưởng hồi còn trẻ, họ chả phải là những á thánh mà chỉ là những con người với đầy đủ cung bật tốt xấu. Có anh đóng rất tròn vai trò người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình, có chú chân chỉ hạt bột, cơm nhà quà vợ và … sòng phẳng đến độ, trong mắt nhìn bạn bè, là những gã keo kiệt, xem cắc bạc như bánh xe bò, tính toán chi li từng tách cà phê, từng điếu thuốc.
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất: Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng)
Hồi học đệ tứ (lớp 9 bây giờ) tôi có một thằng bạn tên Thái Hải, con trai bác sĩ kiêm thi sĩ Thái Can, nó giống tôi ở cái tính “ba nhe” (phương ngữ miền Trung chỉ những bọn trẻ rắn mắt, cứng đầu, nghịch phá), nhưng khác tôi 180 độ: hắn học cực giỏi, tôi cực dốt! Hơn sáu mươi năm, tôi lang bạt kỳ hồ, thỉnh thoảng về quê nhưng chỉ như khách trọ, chỉ lưng bữa nửa tháng lại ra đi, nên không có cơ hội gặp bạn bè xưa, cũng có nghĩa kể từ ngày còn oắt con cho đến bây giờ tôi chưa gặp lại người bạn thời niên thiếu. Nghe nói sau này hắn cũng là bác sĩ như ông thân sinh. Phải thôi, học giỏi như nó, không nối nghiệp cha mới lạ.
Có thể khẳng quyết, trong dòng văn học Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, chắn chắn Song Thao là nhà văn viết Phiếm uyên bác và mạnh mẽ. Ông đi nhiều, đọc nhiều, viết chuyên cần. Chỉ trên mười năm ông đã trình làng 31 tập Phiếm, mỗi tập trên 300 trang. Đề tài của ông đa dạng, bao quát, từ cây kim sợi chỉ đến vũ trụ bao la với lỗ đen, mặt trăng, sao hỏa, phi thuyền…, đến chuyện đời thường, những địa danh ông từng đặt chân đến. Chúng ta sẽ còn được đọc nữa những tập Phiếm sẽ ra trong tương lai.
Những năm trên dưới hai mươi, tôi xem văn chương là một thứ đạo, những cuốn sách, những thi phẩm không khác kinh thánh, các nhà văn, nhà thơ ngang bằng các giáo chủ. Tôi mê văn chương, tôn sùng những người tạo ra nó. Bước vào tuổi trung niên, say mê vẫn còn, nhưng bình tĩnh hơn, chừng mực hơn. Cho đến khi phần lớn đời mình gắn liền với sách vở như nghiệp dĩ, văn chương, ban đầu tôi viết vì nhu cầu nội tâm, muốn tỏ lộ những buồn vui đau đớn hài mãn… qua chữ nghĩa, trước tiên cho mình, thứ đến cho người, với mong muốn xẻ chia.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.