Hôm nay,  

Tại Sao Phụ Nữ Dễ Mắc Các Bệnh Tự Miễn Dịch Hơn Đàn Ông?

07/06/202400:00:00(Xem: 1050)

Tu Mien Dich

Nghiên cứu mới cho thấy các bệnh tự miễn dịch ở phụ nữ có thể liên quan đến việc cơ thể không thể tắt một trong hai nhiễm sắc thể X. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)


Một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh sẽ giúp bảo vệ cơ thể, chống lại bệnh tật và các tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, đối với 1/10 người và đa số là phụ nữ, hệ thống miễn dịch gặp trục trặc và tấn công các tế bào của cơ thể, gây ra hơn 80 loại bệnh tự miễn dịch, chẳng hạn như lupus, đa xơ cứng (multiple sclerosis) và bệnh phong thấp (rheumatoid arthritis). Một số nghiên cứu gần đây cho thấy phụ nữ thường mắc các bệnh tự miễn dịch nhiều hơn nam giới; nguyên nhân có thể là do có một cơ chế bị lỗi, khiến quá trình tắt nhiễm sắc thể (NST) X trong tế bào diễn ra không đúng cách. Trong các tế bào của phụ nữ, một trong hai NST X được tắt bớt hoạt động. Nếu quá trình này không diễn ra đúng cách, có thể dẫn đến các vấn đề liên quan đến hệ thống miễn dịch và góp phần vào sự phát triển của các bệnh tự miễn dịch.
 
Một nghiên cứu từ Đại học Stanford chỉ ra rằng một phân tử được gọi là Xist (đọc là ‘exist’), có khả năng tắt một bản sao của NST X trong các tế bào ở cơ thể phụ nữ, gây ra phản ứng miễn dịch bất thường. Một nghiên cứu khác từ Pháp, chưa được bình duyệt, phát hiện ra rằng sự hoạt động trở lại của một số gen nhất định trên NST X, vốn đã bị tắt trong quá trình phát triển, có thể gây ra các triệu chứng giống như bệnh lupus ở những con chuột già.
 
Vì hầu hết các bệnh tự miễn dịch thường được phát hiện khi đã qua tuổi dậy thì, đặc biệt là phụ nữ bị nhiều hơn đàn ông, nên hormone giới tính được cho là nguyên nhân chính dẫn đến sự khác biệt này. Thí dụ, cứ 5 bệnh nhân mắc bệnh tự miễn dịch thì có 4 người là phụ nữ. Phụ nữ mắc bệnh lupus nhiều gấp 10 lần so với nam giới. Còn với hội chứng Sjögren, một căn bệnh gây đau mắt và khô miệng, số trường hợp phụ nữ mắc bệnh này cao hơn đến 20 lần so với nam giới.
 
Howard Chang, bác sĩ da liễu và nhà di truyền học phân tử tại Trường Y Đại học Stanford ở California, người đứng đầu nghiên cứu về Xist, cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phân tử Xist có thể đóng vai trò chủ chốt trong quá trình phát triển của một số bệnh tự miễn dịch, và điều này không phụ thuộc vào hormone của phụ nữ, cũng như không nhất thiết phải có một NST X thứ hai.”
 
Claire Rougeulle, nhà nghiên cứu về di truyền học biểu sinh (epigeneticist) đứng đầu nhóm nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS) thuộc Đại học Paris Cité ở Pháp, cho biết: “Hiện nay có bằng chứng rõ ràng cho thấy ngoài vai trò của hormone giới tính, việc có bao nhiêu NST X và quá trình tắt NST X cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của các bệnh tự miễn dịch.”
 
Theo Jean-Charles Guéry, nhà nghiên cứu về miễn dịch học tại Viện Toulouse Institute for Infectious and Inflammatory Diseases ở Pháp, trước đây không ai biết rằng có nhiều kháng thể tồn tại trong cơ thể nhằm tấn công/tiêu diệt các phân tử cần thiết để tắt hoặc ngắt kết nối NST X.
 
Nghịch lý ở đây là dù phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh tự miễn dịch cao hơn, nhưng điều này có thể là một phần của chiến lược tiến hóa, giúp bảo vệ và duy trì sự sống của con cái. Johann Gudjonsson, bác sĩ da liễu tại Đại học Michigan ở Ann Arbor, giải thích: “Phụ nữ có hệ thống miễn dịch mạnh mẽ hơn để chống lại mọi tác nhân gây bệnh,” có thể là do cần thiết để bảo vệ sức khỏe của cả mẹ và con trong quá trình mang thai và nuôi con.
 
Vanessa Kronzer, bác sĩ chuyên khoa thấp khớp ở Mayo Clinic ở Rochester, Minnesota, giải thích phụ nữ có khuynh hướng sản xuất nhiều kháng thể hơn nam giới là để giúp bảo vệ cả bản thân và con cái thông qua sữa mẹ.
 
Kích thích tố hormones cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của các bệnh tự miễn dịch. Kích thích tố estrogen ở nữ giới tăng cường khả năng miễn dịch, trong khi kích thích tố ở nam giới không chỉ có khả năng ức chế khả năng miễn dịch mà còn bảo vệ cơ thể khỏi bị tự miễn dịch. Những khác biệt trong cách hoạt động của hormone ở 2 giới có thể giải thích tại sao phụ nữ thường có hệ thống miễn dịch mạnh mẽ hơn, nhưng cũng khiến họ dễ mắc các bệnh tự miễn dịch hơn. Nhưng đó có thể không phải là lý do duy nhất.
 
Quá trình tắt một trong hai NST X
 
Trong mỗi tế bào của phụ nữ, có hai NST X, một từ mẹ và một từ cha. Nam giới thì có NST X từ mẹ và NST Y từ cha. NST Y chỉ chứa khoảng 100 gen, nhưng NST X chứa tới hơn 900.
 
Để đảm bảo rằng các gen trên NST X được hoạt động một cách cân đối giữa nam và nữ, một trong hai NST X trong mỗi tế bào ở phụ nữ sẽ bị “tắt” một cách ngẫu nhiên.
 
Để đảm bảo hoạt động của các gen nằm trên NST X ở cả nam và nữ là như nhau, một trong hai NST X ở mỗi tế bào nữ sẽ tắt một cách ngẫu nhiên. Quá trình tắt NST X xảy ra từ giai đoạn phát triển của thai nhi. Phân tử Xist và các protein phụ trợ sẽ cuộn quanh một trong hai NST X và tắt NST này. Nếu cả hai NST X vẫn hoạt động cùng nhau, tế bào sẽ bị tổn thương và chết đi.
 
Kết quả là, cơ thể phụ nữ chứa một khối tế bào trong đó NST X của mẹ hoặc của cha đã bị tắt. Điều này là lý do tại sao bộ lông của mèo tam thể (Calico) cái có màu sắc đa dạng. Một số sợi lông có màu đen từ một NST X đang hoạt động, một số sợi khác lại có màu cam từ NST X còn lại.
 
Tuy nhiên, quá trình tắt NST X có thể không tắt được toàn bộ gen, và có khoảng 15 đến 23% các gen vẫn tiếp tục hoạt động. Một trong những gen vẫn hoạt động dù lẽ ra phải bị tắt có thể góp phần vào sự phát triển của bệnh lupus. Nhiều bằng chứng cho thấy nam giới có một NST X phụ trợ cũng có nguy cơ mắc các bệnh tự miễn dịch cao hơn. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của NST X trong sự phát triển của các bệnh tự miễn dịch.
 
Phân tử Xist kích hoạt kháng thể tự động
 
Chang đã nghiên cứu phân tử Xist trong nhiều năm. Năm 2015, ông phát hiện ra rằng nhiều protein phối hợp với Xist có liên quan đến các bệnh rối loạn tự miễn dịch và bị tấn công bởi các kháng thể bất thường, được gọi là tự kháng thể (autoantibodies). Thay vì chống lại các tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như vi khuẩn, tự kháng thể sẽ bị nhầm lẫn và tấn công các tế bào của chính cơ thể.
 
Để kiểm tra xem liệu việc tắt NST X không đúng cách có phải là nguyên nhân khiến phụ nữ mắc các bệnh tự miễn dịch nhiều hơn nam giới hay không, nhóm nghiên cứu của Chang đã tạo ra những con chuột đực có khả năng sản xuất ra phân tử Xist, loại phân tử thường chỉ hiện diện trong tế bào của con cái.
 
Tuy nhiên, chỉ riêng phân tử Xist không đủ để gây ra các bệnh tự miễn dịch ở chuột đực biến đổi gen.
 
Chỉ khi các nhà nghiên cứu tiêm tác nhân kích thích vào những con chuột đực này, nồng độ tự kháng thể mới tăng lên và gây ra bệnh. Có tác nhân kích thích, nồng độ tự kháng thể ở chuột đực có phân tử Xist tương đương với nồng độ ở chuột cái, và cao hơn so với chuột đực bình thường. Những con chuột được biến đổi gen cũng bị tổn thương mô nghiêm trọng hơn và có dấu hiệu viêm nhiễm nặng hơn khi tiếp xúc với tác nhân kích thích.
 
Điều đó cho thấy rằng dù có phân tử Xist, vẫn cần có yếu tố di truyền hoặc kích thích môi trường để gây ra các bệnh tự miễn dịch ở nữ giới. Nghiên cứu gợi ý rằng chỉ khi các tế bào bị tổn thương, do tác nhân môi trường hoặc do yếu tố di truyền, các phân tử Xist và protein phụ trợ mới thoát ra khỏi tế bào và gây ra phản ứng miễn dịch. Kết quả là hệ thống miễn dịch sản xuất tự kháng thể để chống lại phức hợp Xist-protein, từ đó khởi phát bệnh tự miễn dịch. Đây là lý do không phải phụ nữ nào cũng bị bệnh tự miễn dịch.
 
NST X liên quan đến bệnh lupus
 
Rougeulle hợp tác với Céline Morey, một nhà nghiên cứu về di truyền học biểu sinh ở Paris, để tìm hiểu điều gì xảy ra khi NST X không bị tắt hoàn toàn.
 
Họ biến đổi gen của chuột cái để thể hiện sự không hoàn hảo trong việc tắt NST X - trong đó có một số gen trên NST X thứ hai chưa được tắt. Các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp tắt NST X không hoàn toàn, vì việc chặn hoạt động của tất cả phân tử Xist sẽ làm cho cả hai NST X hoạt động hoàn toàn và gây ra cái chết cho chuột. Trong quá trình thí nghiệm, các khoa học gia không nghĩ rằng những con chuột sẽ bị bệnh tự miễn dịch, và họ đã rất ngạc nhiên khi thấy chuột cái được biến đổi gen có các triệu chứng giống như bệnh lupus.
 
Morey cho biết: “Các triệu chứng của bệnh tự miễn dịch không xuất hiện ngay lập tức, mà bắt đầu xảy ra khi chuột già đi.”
 
Điều này cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho nghiên cứu năm 2018 của Guéry, chứng minh rằng khi một gen kích thích viêm nhiễm thoát khỏi quá trình tắt NST trong tế bào miễn dịch, sẽ làm tăng nguy cơ phát triển bệnh lupus.
 
Nghiên cứu từ Stanford và từ Pháp đều có một điểm chung, đó là cả hai nghiên cứu đều liên kết giữa NST X và quá trình tắt NST X với bệnh tự miễn dịch.
 
Các cơ chế liên quan đến việc tắt NST X có thể giải thích cho sự khác biệt về giới tính trong một số bệnh tự miễn dịch dịch như bệnh lupus và bệnh Sjögren. Tuy nhiên, cần lưu ý là không thể có một cơ chế duy nhất cho tất cả các bệnh tự miễn dịch.
 
Dự đoán ai có thể mắc bệnh tự miễn dịch
 
Nghiên cứu của Stanford phát hiện ra sự xuất hiện của tự kháng thể chống lại các protein liên quan đến Xist trong máu của những người mắc các bệnh tự miễn dịch như lupus, xơ cứng bì (scleroderma), hoặc viêm da cơ (dermatomyositis).
 
Một số tự kháng thể chỉ xuất hiện ở một số bệnh tự miễn dịch nhất định, một số khác lại tồn tại trong nhiều loại bệnh tự miễn dịch khác nhau. Vì vậy, có thể lập ra một danh sách các tự kháng thể để sử dụng trong việc chẩn đoán và phân loại các bệnh tự miễn dịch.
 
Tuy nhiên, Rougeulle cảnh báo rằng trong các nghiên cứu hiện nay, chưa có đủ bằng chứng để khẳng định rằng nồng độ của tự kháng thể sẽ tăng lên đáng kể trước khi bệnh tự miễn dịch phát triển. Vì vậy, cần thực hiện thêm nghiên cứu trước khi có thể phát triển công cụ chẩn đoán. 
Nguồn: “Why women are more prone to autoimmune diseases” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu quan sát kỹ lưỡng, quý vị có thể sẽ thấy ngạc nhiên trước sự khác biệt rõ rệt ở những cụ đang ngấp nghé tuổi 80. Một số cụ bị bệnh quên (hay còn gọi là bệnh lú lẫn, Dementia), nhưng cũng có một số cụ vẫn rất minh mẫn và nhớ rất dai, dù đi đứng đã lọm khọm lắm rồi.
Một bước tiến quan trọng trong y học đã được công bố bởi các nhà nghiên cứu tại Đại học Lund, Thụy Điển. Họ đã phát triển một xét nghiệm máu đơn giản có khả năng phát hiện bệnh Alzheimer với độ chính xác lên đến 90%. Đây là tin vui cho hàng triệu người trên thế giới, đặc biệt là khi bệnh Alzheimer ngày càng trở thành một vấn đề y tế nghiêm trọng.
Căng thẳng thần kinh. Lo âu bồn chồn. Đau thắt lưng. Cao máu. Nếu đã phải làm việc nhiều giờ tại văn phòng, có thể quý vị đã quá quen thuộc với những điều được liệt kê ở trên. Hiện nay, nhiều nơi đang tranh cãi về vấn đề một tuần chỉ làm việc 4 ngày thôi, nhưng một số nơi khác lại đi ngược khuynh hướng. Vào tháng 7, Hy Lạp đã thông qua luật cho phép một số cơ sở và công ty yêu cầu công nhân làm việc 6 ngày / tuần. Tập đoàn Samsung cũng yêu cầu các giám đốc điều hành một tuần phải đi làm 6 ngày. Điều này khiến người ta phải suy nghĩ về tác động của làm việc nhiều giờ đến cơ thể và sức khỏe.
Trước đây, nhiều người thường sử dụng thức uống tăng năng lực (energy drinks) khi cần giữ tỉnh táo và tăng cường năng lượng. Nhưng giờ đây, thức uống này đã có một vai trò mới: những người tạo ảnh hưởng (influencers) trong giới tập thể dục và thể hình đang rủ nhau sử dụng các loại nước này để giảm cân.
Từ khi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy rất nhiều về chế độ dinh dưỡng lành mạnh, và hầu hết mọi người đều biết những thực phẩm nào thì giàu dinh dưỡng, những loại đồ ăn thức uống nào thì không tốt cho sức khỏe. Nhưng thực tế, mặc dù ai cũng biết nên ăn uống lành mạnh, nhưng không phải ai cũng có thể thay đổi cách ăn uống của mình để theo một chế độ dinh dưỡng lành mạnh.
Cấy ghép điện tử để khôi phục thị giác cho người mù là một công nghệ đã được nghiên cứu từ lâu, nhưng vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Công nghệ này hoạt động bằng cách kích thích trung tâm thị giác của não qua các xung điện, tạo ra cảm giác nhìn ngay cả khi mắt không còn khả năng hoạt động. Tuy nhiên, các cấy ghép hiện tại, chủ yếu làm từ silic với kích thước lớn, thường gây ra mô sẹo trong não và bị ăn mòn theo thời gian, làm giảm hiệu quả và tuổi thọ của chúng.
Một sáng nào đó, khi soi gương bỗng thấy trên đầu mình có tóc bạc, nhiều người sẽ cảm thấy như “tuổi già đã ập đến.” Liệu có cách nào để trẻ mãi không già? Tin buồn là khoa học vẫn chưa tìm ra cách để chặn đứng quá trình lão hóa. Vậy nên, nhiều người đành tìm cách che đậy dấu vết của thời gian – nhuộm che tóc bạc. Che tóc bạc là một ngành công nghiệp trị giá hàng tỷ MK trên toàn thế giới. Một hộp thuốc nhuộm sẽ giúp tạm thời che đi một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất của lão hóa: tóc bạc. Nhưng tại sao tóc lại bạc, và liệu trong tương lai, khoa học có thể tìm ra cách để đảo ngược quá trình này không?
Xét nghiệm máu chẩn đoán đúng bệnh Mất Trí Nhớ (Alzheimer) đến khoảng 90%, so với 73% ở các bác sĩ chuyên khoa và 61% ở các bác sĩ gia đình. Các tác giả nghiên cứu viết rằng xét nghiệm máu chính xác đối với bệnh Alzheimer "có thể hợp lý hóa quá trình chẩn đoán và điều trị".
Ngày 14/7, Cơ quan Kiểm soát và Phòng bệnh Hoa Kỳ (CDC) thông báo có 5 ca nhiễm cúm gia cầm H5N1 mới, nâng tổng số ca nhiễm tính từ tháng 4 lên 9 ca. Cả 5 trường hợp mới đều liên quan đến việc tiêu hủy gà bệnh ở Colorado, và có vẻ như là cùng một chủng virus đã lây lan ở bò trên toàn quốc từ tháng 12. Cho đến nay, chưa có bằng chứng loại virus này đã thích nghi để có khả năng lây lan giữa người với người. Tuy nhiên, nếu virus cứ tiếp tục lây lan trên những loài động vật ở gần với con người, nguy cơ xuất hiện chủng mới gây ra một trận đại dịch chết chóc sẽ càng lớn.
Marian Cleeves Diamond (1926-2017) là nữ khoa học gia người Mỹ chuyên về não. Bà và nhóm làm việc của bà lần đầu tiên đã công bố bằng chứng cho thấy não có thể thay đổi theo kinh nghiệm và cải thiện theo sự bồi bổ, điều mà ngày nay gọi là khả năng thay đổi của hệ thần kinh để đáp ứng với kích thích bên trong và bên ngoài (neuroplasticity), theo một bài viết đăng trên trang nhà Đại Học UC Berkeley.“Nghiên cứu của bà cho thấy tác động của việc bồi bổ lên sự phát triển của não – một sự hiểu biết đơn giản nhưng có sức mạnh mà đã thay đổi thế giới, từ cách chúng ta nghĩ về chính mình tới cách chúng ta nuôi dạy con cái của chúng ta,” theo giáo sư về sinh học của Đại Học UC Berkeley George Brooks, cũng là một đồng viện của bà Diamond. “Tiến Sĩ Diamond cho thấy về mặt cơ thể học, lần đầu tiên, những gì chúng ta hiện nay gọi là khả năng thay đổi để đáp ứng với kích thích bên trong và bên ngoài của não bộ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.