Hôm nay,  

Bệnh mất trí nhớ: Xét nghiệm máu chẩn đoán chính xác hơn các phương pháp khác

09/08/202400:00:00(Xem: 4263)
mat tri nhgo
Hình minh họa từ istock.com
 
Xét nghiệm máu chẩn đoán đúng bệnh Mất Trí Nhớ (Alzheimer) đến khoảng 90%, so với 73% ở các bác sĩ chuyên khoa và 61% ở các bác sĩ gia đình.
 
Các tác giả nghiên cứu viết rằng xét nghiệm máu chính xác đối với bệnh Alzheimer "có thể hợp lý hóa quá trình chẩn đoán và điều trị".
 
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC), ước tính có 5.8 triệu người Mỹ trên 65 tuổi mắc bệnh mất trí nhớ vào năm 2020, một con số dự kiến ​​sẽ tăng gấp ba vào năm 2060. Căn bệnh này là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ sáu ở Hoa Kỳ.
 
Mặc dù căn bệnh này không có cách chữa khỏi, nhưng đã có hai phương pháp điều trị được chấp thuận có thể giúp những người có triệu chứng ban đầu mới mắc bệnh. Nhưng trước khi mọi người có thể nhận được các phương pháp điều trị này, cần phải có bằng chứng sinh học cho thấy họ mắc bệnh mất trí nhớ, và bệnh này rất khó chẩn đoán.
 
Tại các phòng khám chuyên khoa, bệnh mất trí nhớ Alzheimer bị chẩn đoán sai từ 25 đến 35 phần trăm, theo một nghiên cứu mới. Chụp PET và chọc tủy sống chính xác hơn. Nhưng các xét nghiệm này đắt hơn và phức tạp hơn.
 
"Đôi khi tôi có những bệnh nhân mà tôi tin chắc mắc bệnh mất trí nhớ và tôi đã làm xét nghiệm nhưng kết quả là âm tính", Suzanne Schindler, đồng tác giả của nghiên cứu và là bác sĩ thần kinh tại Đại học Washington ở St. Louis, nói với Lauran Neergaard của Associated Press (AP).
 
Qua nghiên cứu mới, nhà nghiên cứu đã xem xét một loại protein liên quan đến bệnh Alzheimer có tên là p-tau217. “Xét nghiệm máu p-tau217 đang trở thành xét nghiệm đặc hiệu nhất đối với bệnh Alzheimer và là xét nghiệm có giá trị nhất. Có vẻ như đây là xét nghiệm tiên phong”, Maria Carrillo, giám đốc khoa học của Hiệp Hội Bệnh Mất Trí Nhớ, đơn vị tài trợ một phần cho nghiên cứu, chia sẻ với Sandee LaMotte của CNN.
 
Nghiên cứu này bao gồm hơn 1,200 người tham gia tại Thụy Điển, họ đến gặp bác sĩ để thử nghiệm các triệu chứng về nhận thức trí óc. Khoảng 23 phần trăm người tham gia bị suy giảm nhận thức chủ quan, 44 phần trăm bị suy giảm nhận thức nhẹ và 33 phần trăm bị chứng mất trí. Độ tuổi trung bình của họ là 74. Các nhà nghiên cứu viết rằng nghiên cứu này nên được xác nhận ở các quốc gia khác.
 
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng xét nghiệm máu có độ chính xác cao và họ cho biết các nghiên cứu trong tương lai nên xem xét cách các xét nghiệm máu như vậy.
 
Tuy nhiên các chuyên gia cũng cho rằng việc xét nghiệm máu không nên là công cụ duy nhất được sử dụng để chẩn đoán bệnh Alzheimer và chỉ nên sử dụng cho những người bị suy giảm nhận thức.
 
Đối với những người có thể mắc bệnh mất trí nhớ, thời gian chờ đợi để được khám với bác sĩ chuyên khoa và làm xét nghiệm dự kiến ​​sẽ kéo dài hơn trong tương lai, vì số lượng người mắc bệnh Alzheimer tăng lên, theo CNN.
 
"Bằng cách kết hợp một bài kiểm tra nhận thức trí óc ngắn với một xét nghiệm máu chính xác về bệnh lý trong giai đoạn đầu, chúng ta có thể giảm các đợt khám không cần thiết và rút ngắn thời gian chờ đợi khám", Soeren Mattke, một nhà nghiên cứu tại Đại học Nam California, người đã trình bày tại Hội nghị quốc tế của Hiệp hội Alzheimer vào ngày 28 tháng 7, nói với Megan Brooks của Medscape Medical News.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một nghiên cứu mới đầy hứa hẹn mang đến tin vui cho hàng triệu thai phụ trên thế giới: Liệu pháp mRNA có thể điều trị tiền kinh sản (preeclampsia), một biến chứng thai kỳ nguy hiểm đến tính mạng mà y học hiện nay vẫn đang lực bất tòng tâm. Tiền kinh sản là nỗi ám ảnh của 3-5% thai phụ, thường xuất hiện vào khoảng tuần thứ 20 của thai kỳ và đôi khi có thể kéo dài đến sau sinh. Đặc trưng của bệnh này là tình trạng huyết áp cao dai dẳng, có thể gây tổn thương cho nhiều cơ quan. Triệu chứng điển hình là protein xuất hiện trong nước tiểu và trong nhiều trường hợp nghiêm trọng có thể gây suy tạng. Mỗi năm, căn bệnh này cướp đi sinh mạng của hơn 70,000 bà mẹ và 500,000 thai nhi trên toàn thế giới.
Năm 2024 chào đón hàng loạt phát hiện thú vị trong nhiều lĩnh vực khoa học, không chỉ trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI) và điện toán mà còn trong các lĩnh vực sinh học và y tế. Sau đây là bảy thành tựu y tế nổi bật trong năm nay, phản ánh những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực y học, đem lại hy vọng cho hàng triệu người trên khắp thế giới.
Tổng thống đắc cử Donald Trump cho biết ông dự định sẽ thảo luận với Robert F. Kennedy Jr., ứng viên được đề cử lãnh đạo Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh (Health and Human Services, HHS), về việc chấm dứt các chương trình tiêm chủng dành cho trẻ em, theo tin Reuters ngày 12/12. Khi được hỏi liệu ông có ủng hộ quyết định nếu Kennedy chọn chấm dứt các chương trình tiêm chủng này, Trump nói với tạp chí Time: “Chúng tôi sẽ thảo luận thật kỹ về vấn đề này. Tỷ lệ trẻ bị tự kỷ hiện nay đã ở mức đáng lo ngại. Nếu cẩn thận quan sát tình hình, rõ ràng có điều gì đó đang gây ra hiện tượng này.”
Sau đại dịch Covid-19, các chuyên gia y tế Hoa Kỳ đang chú ý đến một căn bệnh truyền nhiễm mới có nguồn gốc từ vùng Trung và Nam Mỹ: Virus Oropouche. Theo một bản tin được đăng trên trang mạng của Tổ Chức Dịch Vụ Truyền Thông Sắc Tộc (EMS), Tiến Sĩ Peter Chin-Hong, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại UC San Francisco, đã tóm tắt một số chi tiết mới nhất được công bố về Vi-rút Oropouche như là mối đe dọa mới nổi cho sức khỏe cộng đồng. Vi-rút Oropouche hiện nay vẫn ít được biết đến, nhưng bắt đầu gây lo ngại cho các chuyên gia y tế cộng đồng. Hơn 10,000 trường hợp nhiễm virus đã được xác định trong năm nay, chủ yếu ở Nam Mỹ và vùng Caribe. Vi-rút này đang lây lan sang Hoa Kỳ: 94 trường hợp đã được xác định trong hai năm 2023-2024, theo dữ liệu từ Trung Tâm Kiểm Soát Và Phòng Ngừa Dịch Bệnh (CDC). Trong hai trường hợp, Oropouche đã lây nhiễm vào não, gây viêm não hoặc viêm màng não. Tất cả 94 trường hợp đều liên quan đến việc đi du lịch.
Tổng thống đắc cử Donald Trump đã hứa với người ủng hộ rằng ngay sau khi nhậm chức, ông sẽ bắt đầu cắt giảm mạnh chi tiêu chính phủ để giảm lạm phát và nợ công. Một số chương trình y tế liên bang quan trọng có thể phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt ngân sách trong vài năm tới. Các khoản cắt giảm có thể nhắm vào Chương Trình Bảo Hiểm Y Tế Cho Người Có Thu Nhập Thấp (Medicaid), Chương Trình Bảo Hiểm Y Tế Trẻ Em (CHIP), và Chương Trình Hỗ Trợ Dinh Dưỡng Bổ Sung (SNAP).
Phúc lợi thuốc của Medicare, được biết như là Part D, sẽ chứng kiến nhiều thay đổi lớn trong năm tới như một phần thúc đẩy rộng lớn hơn để giúp trên 50 triệu người Mỹ đã ghi danh vào chương trình quản trị chi phí thuốc men. Đó là kết quả của Đạo Luật Giảm Lạm Phát (Inflation Reduction Act – IRA) năm 2022 của chính phủ Biden, trong đó trao thẩm quyền mới cho chính phủ để trực tiếp thương lượng giá cả của một số thuốc với các công ty dược phẩm. Luật này cũng bao gồm 2 thay đổi lớn khác sẽ có hiệu lực vào năm tới: Lựa chọn để làm dễ chịu các chi phí cùng trả (co-payments) đối với các loại thuốc trên cơ bản hàng tháng và giới hạn mức $2,000 cho việc trả tiền out-of-pocket (tiền túi tự trả) cho tất cả những người ghi danh vào Part D.
Để cơ thể duy trì sự cân bằng, rất nhiều yếu tố cần phải hoạt động đồng bộ. Các cơ quan như tai trong và mắt phải gửi tín hiệu chính xác đến não, trong khi cơ bắp, khớp và cảm giác – đặc biệt ở bàn chân – cần phối hợp tốt. Bộ não, trung tâm điều phối thông tin, giữ vai trò then chốt trong việc tiếp nhận và tích hợp các tín hiệu này. Khi bất kỳ yếu tố nào trong hệ thống này gặp vấn đề, cảm giác cân bằng sẽ bị ảnh hưởng, dẫn đến các rối loạn như chóng mặt hoặc mất thăng bằng.
Theo nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Lancet, gần một nửa thanh thiếu niên và ba phần tư người trưởng thành tại Hoa Kỳ được phân loại là dư cân (overweight) hoặc mập phì (obese) vào năm 2021. Tỷ lệ này đã tăng hơn gấp đôi so với năm 1990. Nếu không có biện pháp can thiệp khẩn cấp, dự báo đến năm 2050, hơn 80% người trưởng thành và gần 60% thanh thiếu niên sẽ rơi vào tình trạng tương tự.
Một nghiên cứu mới vừa được công bố trên tạp chí Journal of Clinical Investigation, đã đưa ra một phát hiện bất ngờ: bị nhiễm COVID nặng lại có thể giúp thu nhỏ các khối u ung thư. Dù chỉ mới được kiểm nghiệm ở chuột, phát hiện này mang đến những hy vọng mới trong điều trị ung thư và những hiểu biết mới về mối quan hệ phức tạp giữa hệ thống miễn dịch và tế bào ung thư. Tuy nhiên, các khoa học gia cũng cảnh báo rằng điều này không có nghĩa là mọi người nên cố tình để mình bị nhiễm COVID thử cho biết.
Nữ doanh nhân 41 tuổi người Kenya, Wachuka Gichohi, đã sống chung với Covid kéo dài (long Covid) suốt bốn năm qua. Các triệu chứng như mệt mỏi, kiệt quệ, đau đớn và các cơn hoảng loạn (panic attack) khiến cô từng lo sợ mình sẽ không qua khỏi mỗi đêm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.