Hôm nay,  

Bàn Chân Phụ Nữ Mang Thai Và Những Vấn Đề Liên Quan Đến Chân

01/11/202400:00:00(Xem: 1402)

me bau
Mang thai có thể ảnh hưởng đến đôi chân, không chỉ là bị sưng phù và thay đổi dáng đi. Một số đàn bà có bầu còn bị tăng cỡ giày lên một hoặc hai cỡ; sau khi sinh cũng không thể quay trở lại như trước. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

Năm 2022, vận động viên điền kinh nổi tiếng của Hoa Kỳ Allyson Felix đã công bố một chính sách đổi hàng độc đáo cho thương hiệu giày chạy bộ Saysh của cô: cho phép khách hàng đổi lấy một đôi giày mới nếu sau khi mua giày, chân của họ thay đổi kích cỡ do mang thai.
 
Chính sách này là sự thừa nhận công khai về một vấn đề mà thường chỉ các bà mẹ tâm sự riêng với nhau: mang thai có thể khiến chân của chúng ta to ra, tăng từ một đến hai cỡ giày. Hiện tượng này được gọi là “chân mẹ bầu,” (mom feet).
 
Tuy nhiên, đó không phải là tác động duy nhất mà mang thai gây ra cho đôi chân. Nhiều mẹ bầu còn gặp phải tình trạng chân bị sưng phù, đổi tướng đi, và thậm chí là sụp vòm bàn chân (bàn chân bị bẹt ra). Những vấn đề này từng bị xem nhẹ, nhưng hiện nay đang được xem xét nghiêm túc hơn.
 
Neil Segal, giảng sư khoa chỉnh hình và phục hồi chức năng tại Đại học Iowa, cho biết: “Mang thai thường được coi là một tình trạng tạm thời, vì vậy một số bác sĩ thường không xem xét nghiêm túc mà sẽ nói với quý vị là sau khi sinh, mọi thứ sẽ trở lại bình thường.” Nhưng nghiên cứu của Segal và các đồng nghiệp cho thấy với nhiều phụ nữ, những thay đổi này có thể kéo dài mãi mãi.
 
Vậy khoa học nói gì về việc bầu bì làm thay đổi đôi chân, và cách chúng ta có thể đối phó với những thay đổi này?
 
Chân bị sưng phù
 
Sưng chân là một hiện tượng rất phổ biến trong thai kỳ, đặc biệt là vào giai đoạn tam cá nguyệt thứ ba. Khi cơ thể tạo ra nhiều máu hơn để nuôi dưỡng thai nhi, lượng chất lỏng trong cơ thể cũng tăng lên. Đồng thời, tử cung phát triển lớn hơn cũng sẽ gây thêm áp lực lên các mạch máu ở chân.
 
Dan Geller, bác sĩ phẫu thuật chuyên về chân và là giám đốc y khoa của Kane Footwear, cho biết: “Trọng lực làm cho lượng chất lỏng đổ dồn xuống chân và mắt cá chân.” Bắp chân lúc này trở thành “trái tim thứ hai” của cơ thể, giúp các van tĩnh mạch bơm máu trở lại phía trên. Khi chất lỏng thoát ra khỏi các mạch máu, có thể gây ra hiện tượng phù lõm (pitting edema), nếu ấn ngón tay vào da, sẽ thấy có vết lõm trên bề mặt da xuất hiện và tồn tại trong vài giây.
 
Jasmine Pedroso, giám đốc phụ khoa tại phòng khám hiếm muộn Kindbody cho biết, mặc dù sưng chân là hiện tượng bình thường trong thai kỳ, nhưng đó cũng có thể là dấu hiệu của các vấn đề nguy hiểm như cục máu đông hoặc nhiễm trùng. Nếu chân sưng không đều, bị đỏ lên, nóng, và đau khi chạm vào, các mẹ bầu cần gặp bác sĩ để được kiểm tra kỹ lưỡng.
 
Dáng đi thay đổi, bàn chân bẹt ra
 
Khi mang thai, trọng tâm cơ thể của sẽ thay đổi vì bụng dần lớn hơn, khiến trọng lượng cơ thể bị dồn về phía trước. Điều này làm ảnh hưởng đến tướng đi của các mẹ bầu.
 
Thông thường, khi chúng ta bước đi, áp lực sẽ di chuyển từ gót chân qua lòng bàn chân rồi đến các ngón chân. Tuy nhiên, khi bụng lớn dần trong thai kỳ, rốn bị đẩy ra xa khỏi trục trung tâm của cơ thể, cột sống trở nên kém vững vàng hơn, khiến các mẹ bầu hay có cảm giác như mình có thể bị ngã chúi về phía trước.
 
Milica McDowell, nhà vật lý trị liệu chỉnh hình kiêm phó chủ tịch tại Gait Happens, một công ty giáo dục chuyên về sức khỏe chân và cơ chế dáng đi, cho biết: “Rất nhiều thai phụ thay đổi tướng đi, họ dồn trọng lượng lên phần trước bàn chân thay vì phần gót chân, và toàn bộ cơ thể dường như bị kéo về phía trước.” Sự mất cân bằng này giống như việc mang một chiếc ba lô ở phía trước người thay vì đeo sau lưng.
 
Mang thai cũng có thể thay đổi cách bàn chân tiếp đất khi đi lại. Khi mang thai, trung bình các mẹ bầu sẽ tăng từ 25 đến 35 pounds (tương đương khoảng 11-16 kg), tăng thêm áp lực rất lớn lên vòm bàn chân. Kết hợp với hormone relaxin, loại hormone được sản sinh mạnh trong thai kỳ, có thể khiến vòm bàn chân dài ra, mở rộng và bị hạ xuống (để dễ hình dung là vòm bàn chân sẽ bị bẹt ra).
 
McDowell giải thích: “Khi áp lực tăng lên, đặc biệt ở phía trước chân, vòm bàn chân khó có thể co lại về vị trí cao tự nhiên, nên sẽ bắt đầu bẹt ra.” Điều này dẫn đến việc áp lực từ mỗi bước chân không còn dồn lên phần trước của bàn chân mà chuyển sang hai bên bàn chân.
 
Một nghiên cứu năm 2020 chỉ ra rằng những phụ nữ mang thai nhiều lần có khuynh hướng bị “overpronation” (khi bước đi, mặt ngoài của gót chân tiếp đất trước và bàn chân bị lật vào trong quá mức), Howard Hillstrom, giám đốc Bệnh viện Phẫu thuật Đặc biệt ở New York và đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết.
 
Viêm cân mạc và biến dạng ngón chân cái
 
Theo Rina Harris, một bác sĩ chuyên khoa chỉnh hình bàn chân tại London, bao bàn chân bị viêm và đau (plantar fasciitis), hay còn gọi là viêm cân mạc, là một tình trạng thường thấy khác trong thai kỳ. Đây là một dạng tổn thương đối với màng cơ bàn chân (plantar fascia), một dải mô giống dây chằng chạy dọc dưới lòng bàn chân. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do sự lỏng lẻo của các mô liên kết, cơ bàn chân yếu, bắp chân căng cứng và trọng lượng tăng thêm trong thai kỳ. Nếu được điều trị kịp thời, tình trạng này sẽ khỏi hoàn toàn. Nhưng nếu không được điều trị, viêm cân mạc có thể kéo dài và ngày càng nặng hơn.
 
Trong khi đó, biến dạng ngón chân cái (bunions), xảy ra ở kẽ ngón chân cái (ngay khớp xương) và làm cho ngón chân trông to hơn bình thường. Nguyên nhân của tình trạng này thường là do mang giày quá chật và hẹp, kết hợp với kết hợp với việc các khớp trở nên lỏng lẻo do sự thay đổi hormone trong thai kỳ. Harris cho biết: “Mặc dù thông thường phải mất hơn 10 tháng để bunions phát triển, nhưng mang thai có thể thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn. Tùy vào mức độ nặng nhẹ, các phương thức điều trị có thể giúp cải thiện sự sắp xếp của khớp, nhưng khớp ngón chân cái sẽ không bao giờ hoàn toàn phục hồi hoặc trở về đúng vị trí ban đầu.
 
Tăng cỡ giày
 
Còn sự thay đổi về kích cỡ bàn chân được biết đến với tên gọi “bàn chân mẹ bầu” (mom feet). Đa số thai phụ chỉ tăng cỡ giày khoảng nửa cỡ, nhưng một số khác có thể tăng lên đến một hoặc hai cỡ. Sau khi sinh con, nhiều người sẽ quay trở lại với cỡ giày bình thường như trước khi có bầu; nhưng đối với một số người, sự thay đổi này có thể là vĩnh viễn.
 
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng bàn chân bị bẹt ra là nguyên nhân chính khiến cho kích cỡ bàn chân không thể quay trở lại như trước khi sinh. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu còn nghi ngờ rằng độ nhạy cảm của các thụ thể hormone cũng có thể đóng vai trò quan trọng trong hiện tượng này.
 
Theo Segal, mặc dù khi mang thai, mức hormone sẽ tăng lên ở tất cả mẹ bầu, nhưng có khoảng 40% sẽ bị tình trạng bẹt bàn chân nặng hơn. Nguyên nhân có thể là do sự khác biệt ở các thụ thể hormone, khiến một số người chịu tác động mạnh hơn những người khác. Nhưng vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu nhiều.
 
Có thể làm gì để ngăn ngừa?
 
Các biện pháp phòng ngừa có thể góp phần quan trọng trong việc tránh hiện tượng “bàn chân mẹ bầu” và những vấn đề khác gây khó chịu cho đôi chân. Bác sĩ Pedroso khuyên thai phụ nên thường xuyên nâng cao chân để phần dưới của cơ thể cao hơn tim, mang vớ y khoa loại dài qua đầu gối, thường kéo giãn và xoa bóp chân, tập thể dục nhẹ nhàng và duy trì chế độ dinh dưỡng lành mạnh, không ăn mặn.
 
Giày dép cũng rất quan trọng. Harris khuyến cáo nên chọn những đôi giày thoải mái và mô phỏng theo hình dáng tự nhiên của bàn chân, tránh mang những đôi giày mũi nhọn. Chọn giày dép phù hợp giúp cung cấp không gian cho các ngón chân giãn ra, giảm sưng phù và tăng cường khả năng chịu lực cho chân.
 
Việc lựa chọn giày đúng kích cỡ là rất quan trọng. Một nghiên cứu năm 2018 chỉ ra rằng có từ 63% đến 72% người đang mang giày không đúng kích cỡ. McDowell cho biết: “Nếu giày làm các ngón chân của quý vị bị ép lại, đó không phải là giày đúng cỡ.” Mọi người nên đo kích cỡ chân của mình một lần mỗi năm.
 
Ngoài ra, cấu trúc giày cũng cần được chú ý. Segal nhấn mạnh: “Hỗ trợ cho vòm bàn chân trong thai kỳ là việc rất quan trọng,” để duy trì sự ổn định và giảm áp lực cho đôi chân.
 
Hiện vẫn chưa có nhiều nghiên cứu khoa học để làm sáng tỏ tất cả các nguyên nhân khiến chân thay đổi đáng kể trong và sau thai kỳ. Segal và các nhà nghiên cứu khác cho rằng những vấn đề này cần được xem xét một cách nghiêm túc. Geller cho biết: “Đây là những vấn đề có thật, không phải là lý thuyết suông hay những câu chuyện dân gian truyền tai.
 
Nguồn: “Pregnancy can change your feet forever. Here’s the science behind 'mom feet.'” được đăng trên trang Nationalgeographic.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng 7 năm 2025, giới chức y tế tiểu bang Arizona xác nhận một trường hợp tử vong do dịch hạch thể phổi – dạng hiếm nhất nhưng cũng nguy hiểm nhất trong ba thể dịch hạch được biết đến. Dịch hạch từng gieo rắc kinh hoàng khắp Âu Châu thời Trung Cổ với cái tên "Cái Chết Đen" (Black Death), nhưng ngày nay số ca bệnh còn lại rất ít. Theo Cleveland Clinic, trung bình thế giới chỉ ghi nhận từ 1.000 đến 2.000 ca dịch hạch mỗi năm; riêng tại Hoa Kỳ, con số này vào khoảng bảy trường hợp.
Trong những năm gần đây, danh tiếng của Monosodium Glutamate (MSG), hay còn gọi là bột ngọt hoặc mì chính, đã dần được phục hồi. Từng bị cáo buộc là nguyên nhân của các triệu chứng như nhức đầu, tê rần và châm chích, tức ngực, khó thở, MSG đang dần được đón nhận trở lại. Hiện tại, bột ngọt đang có mặt trong một số loại đồ uống, bánh kẹo và cả các buổi giới thiệu gian bếp gia đình của những người có sức ảnh hưởng trên mạng xã hội.
Những tranh luận tưởng chừng đã khép lại từ nhiều năm trước lại bất ngờ bùng lên khi chất bảo quản (preservative) thimerosal – từng được sử dụng trong vắc-xin dành cho trẻ em – được đưa trở lại nghị trình của ủy ban cố vấn thuộc Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Câu chuyện bắt đầu tại buổi họp đầu tiên của Ủy ban cố vấn về Chủng ngừa (ACIP) thuộc CDC kể từ ngày 11 tháng 6, sau khi Bộ trưởng Y tế Robert F. Kennedy Jr. bất ngờ thay thế toàn bộ 17 thành viên cũ bằng 8 người do chính ông chỉ định. Phiên họp này diễn ra vào ngày 25-26 tháng 6 năm 2025, tập trung vào các loại vắc-xin phòng COVID-19, HPV, cúm mùa và các bệnh truyền nhiễm khác. Nhưng theo lịch trình mới được cập nhật, nội dung họp lần này còn bao gồm phần trình bày về chất bảo quản thimerosal, đồng thời bỏ phiếu về đề nghị tiếp tục sử dụng chất này trong các loại vắc-xin cúm.
Chích ngừa bệnh sởi đầu tiên được cấp phép vào năm 1963 và trở thành một phần của tổng hợp các loại vaccine sởi, quai bị và rubella, hay vaccine MMR, vào năm 1971. Ngày nay, vaccine ngừa bệnh thủy đậu đôi khi được kết hợp thành loại gọi là vaccine MMRV. Thông thường, trẻ em từ 12 đến 15 tháng sẽ được chích mũi đầu tiên vaccine ngừa bệnh sởi. Mũi thứ hai diễn ra trong độ tuổi từ 4 đến 6. Các chuyên gia khuyến khích trong thời gian dịch bệnh bùng phát, trẻ em nhỏ nên chích ngừa, như đợt bùng phát bệnh sởi đang diễn ra ở Hoa Kỳ, đã dẫn đến hơn 1.200 trường hợp, trong số đó là 750 ca nhiễm ở Texas. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, 95% các trường hợp xảy ra ở những người chưa được tiêm vaccine hoặc những người không rõ tình trạng chích ngừa.
Hãy thử nhắm mắt lại và hình dung một trái táo. Quý vị thấy gì? Màu đỏ chín mọng hay màu xanh óng ánh? Trái táo nằm trên bàn, đang lơ lửng trong không khí hay được ai đó cầm trên tay? Nếu đã cố gắng mà chỉ thấy một khoảng không vô định, rất có thể quý vị đang trải qua một tình trạng đặc biệt có tên là aphantasia – hội chứng mất khả năng hình dung hình ảnh trong tâm trí. Dù mới được đặt tên gần đây, hiện tượng này đang mở ra những hiểu biết mới mẻ về sự đa dạng trong cách não bộ con người hoạt động và ghi nhớ thế giới.
Khi nhắc đến bọ ve (ticks), người ta thường nghĩ ngay tới những ký sinh trùng đáng sợ, lặng lẽ bám theo những bước chân dã ngoại cuối tuần hoặc những buổi dạo chơi công viên. Nỗi sợ đó không phải vô lý. Từ lâu, bọ ve đã là nguyên nhân truyền bệnh phổ biến nhất tại Hoa Kỳ trong nhóm bệnh có vật thể trung gian. Chúng hút máu từ nhiều loài động vật, hấp thu mầm bệnh rồi truyền sang người qua mỗi vết cắn. Có những bệnh nguy hiểm như Lyme, babesiosis và sốt Rocky Mountain – nếu không phát hiện sớm và điều trị kịp thời, hậu quả sẽ khôn lường, thậm chí có thể tử vong.
Chắc hẳn quý vị đã đôi lần bắt gặp những quảng cáo từ các chuyên gia vật lý trị liệu về phương pháp điều trị nhức đầu và không khỏi băn khoăn: “Có hiệu quả thật không vậy?” Câu trả lời là: Có! Đã có khá nhiều nghiên cứu đáng tin cậy chứng minh rằng các liệu pháp vật lý trị liệu có thể hữu hiệu, đặc biệt là với những cơn nhức đầu liên quan đến vùng cổ.
Nếu từng nghe ai đó bảo rằng “bình tĩnh, hít một hơi sâu vào,” thì quý vị đừng vội nghĩ đó là lời khuyên vu vơ, sáo rỗng. Thực ra, khoa học đã chứng minh điều đó hoàn toàn đúng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc hít thở một cách có ý thức mang lại hàng loạt lợi ích, cả ngắn hạn lẫn lâu dài: từ cải thiện sức khỏe tim mạch, giảm bớt lo lắng, tinh thần sảng khoái hơn, đầu óc minh mẫn và giấc ngủ cũng sâu hơn.
Ngày nay, ung thư đại tràng (hay còn gọi là ung thư ruột già) không còn là căn bệnh của tuổi già nữa. Cứ 5 người được chẩn đoán thì có 1 người chưa đến 54 tuổi, đánh dấu mức tăng 11% trong nhóm tuổi này trong vòng hai thập niên qua. Tại sao căn bệnh này lại bùng phát sớm như vậy? Câu hỏi này đã làm đau đầu không ít bác sĩ và khoa học gia. Sau nhiều năm miệt mài tìm kiếm, giới chuyên gia từ lâu đã nghi ngờ colibactin, một loại độc chất do vi khuẩn E. coli và một số vi khuẩn khác sản sinh, có thể phá hủy DNA. Mới đây, một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature đã xác định mối liên quan rõ ràng giữa việc tiếp xúc với colibactin từ thuở nhỏ và nguy cơ mắc ung thư đại tràng ở những bệnh nhân dưới 40 tuổi.
Tuổi vị thành niên vốn đã là giai đoạn không dễ dàng, nhưng thanh thiếu niên ngày nay lại đang gặp phải những rắc rối về sức khỏe mà chưa thế hệ nào từng trải qua. Theo một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí Y khoa The Lancet, hơn một tỷ người trong độ tuổi từ 10 đến 24 (tương đương ít nhất một nửa tổng số thanh thiếu niên trên toàn thế giới) có nguy cơ gặp hậu quả sức khỏe nghiêm trọng vào năm 2030. Béo phì tăng nhanh, các vấn đề về tâm thần ngày càng trầm trọng, công nghệ kỹ thuật số xâm nhập sâu vào đời sống, biến đổi khí hậu – tất cả đang cùng tạo thành một cuộc khủng hoảng sức khỏe đối với giới trẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.