Hôm nay,  

Người Việt Montréal

11/3/200900:00:00(View: 7159)

Người Việt Montréal

Montreal, tuyệt vời.
Thuyền nhân Nguyễn Thượng Chánh

Từ năm 75 đến thập niên 80 có hằng trăm ngàn người Việt Nam liều chết vượt biển để tìm tự do và cuối cùng một số người may mắn đã đến được bến bờ tự do.
Theo ước đoán, hiện nay có khoảng trên 25.000 người Việt Nam đang sinh sống tại thành phố Montréal. Họ được gọi là Les Vietnamiens de Montréal hay Les Viéto-Montréalais.
Theo thời gian, cộng đồng người Việt Montréal dần dần lớn mạnh thêm, thích nghi và hội nhập một cách êm ái vào xã hội Québec.
Trên bước đường tị nạn, người Việt đã mang theo họ kinh nghiệm sống từ quê hương khói lửa cũng với một tâm quyết sắt đá là phải gầy dựng lại một cuộc đời mới trong tự do và hy vọng một tương lai sáng sủa hơn đang chờ đón con cháu họ…
«Les Vietnamiens de Montréal» là tên một quyển sách nghiên cứu xã hội, nhân chủng học do Giáo sư Louis-Jacques Dorais và Eric Richard thuộc Đại học Laval, Québec thực hiện và do Les Presses de l’Université de Montréal xuất bản năm 2007. Sách hiện có trong tất cả thư viện Québec.
Tác phẩm trên dựa vào sự tìm hiểu về cuộc sống và sự hội nhập của người tị nạn Việt Nam thuộc thế hệ thứ nhứt và thứ hai, nghĩa là những lớp người tị nạn cộng sản đến định cư tại Montréal từ 1975 cho đến những năm 1980.
La plupart des Viéto-Montréalais se sont admirablement bien adaptés à leur société d’accueil et leurs expériences migratoires demeurent singulières.
Tout au long de cet ouvrage qui privilégie une approche anthropo­logique, le lecteur pourra comprendre comment les Viéto-Montréalais ont su tirer parti du multiculturalisme ambiant pour mieux s’adapter et s’intégrer.
Louis-Jacques Dorais est professeur au Département d’anthropologie de l’Université Laval, à Québec. Éric Richard poursuit des études doctorales au même département.
Quyển Les Vietnamiens de Montréal được thực hiện qua thể thức phỏng vấn thăm dò một số vài chục nhóm mẫu (échantillons) đồng hương Việt Nam thuộc nhiều lứa tuổi, có hoàn cảnh xã hội và điều kiện kinh tế khác nhau.
Theo người viết, những nhận xét và kết luận trong tác phẩm trên chỉ có một giá trị thống kê tương đối mà thôi. Nó chỉ nói lên được phần nào, những vấn nạn chung chung mà hầu như không ít người tị nạn, và di dân Việt Nam mới đến định cư thường hay gặp phải...
Dù sao đi nữa, tác phẩm trên được nhìn qua từ phía các học giả Québecois cũng giúp cho chúng ta biết thêm về người Việt tại Montréal, và biết chừng đâu mình cũng có thể nhận thấy chính mình trong tác phẩm nói trên.
Một số trích dẫn tiêu biểu từ tác phẩm Les Vietnamiens de Montréal
« Montréal đối với tôi như một gia đình đa chủng tộc» (nam 37tuổi, định cư năm 82, trang 28).
“…Khi đến đây, tôi gặp được nhiều may mắn. Tôi tìm được việc làm tại Baie James. Tôi là kẻ thích phiêu lưu. Cho dù là người Québecois, họ cũng không dám bén mảng đến nơi đó. Vì lạnh quá mà. Nhưng tôi tự nhủ: mình không có một sự chọn lựa nào khác hơn được. Đây là lý do sinh tồn của mình. Có người xúi tôi đi xin trợ cấp xã hội (social welfare) nhưng tôi dứt khoát chối từ...” (nam 76t, cựu viên chức cao cấp VNCH, định cư năm 75, trg119).
“...Những điều tôi biết được đều do Pa Má tôi kể lại. Có nghĩa là nếu sống bên Việt Nam thì sẽ không có tương lai. Nếu còn ở bên đó thì chắc chắn là Pa Má tôi phải đi cày ruộng rồi. Bởi lý do nầy nên Pa Má tôi quyết định vượt biên. Pa tôi ngày xưa là hải quân và chúng tôi bị thua trận. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng Pa tôi cần phải đi để cứu lấy mạng sống của mình...” (nam 19t, sanh tại Québec, trg111).
“...Tôi không cảm thấy tiếc nuối gì cả. Tôi nghĩ rằng cha mẹ tôi quyết định rất đúng cho gia đình tôi và cho cả em tôi. Tôi cũng biết là Pa tôi đã hy sinh rất nhiều để cho chúng tôi có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. Pa Má tôi phải gánh chịu bao nổi khó khăn nhọc nhằn mới đến được bến bờ tự do. Pa tôi bắt đầu bằng những công việc lặt vặt để sống...” (nam 28t, sanh tại Toronto, trg112). 
“Tôi muốn giữ lại tất cả, ngoại trừ những khía cạnh quá nghi thức về tập tục. Tôi sẽ dạy dỗ con cái tôi theo kiểu Canada, nghĩa là rất cởi mở, nhưng tôi vẫn áp đặt chúng cái mentalité của người Việt Nam mình đồng thời cũng giữ khía cạnh tích cực của Bắc Mỹ...” (Méthot,1995:176, trg 114).
La participation des Viéto-Montréalais de la deuxième génération à des associations ou des groupes vietnamiens à Montréal est ambigue…De plus, les commentaires receuillis au sujet de ces différents groupes et associations sont majoritairement négatifs. Par exemple, des jeunes Viéto-Montréalais considèrent peu pertinentes les assiociations qui mettent en valeurs certains aspects de la culture vietnamienne. D’autres n’apprécient pas de manière dont les différentes activités sont organisées et ils n’aiment pas le type de personnes qui y prennent part. Pour d’autres enfin, ces associations contribuent uniquement à une forme de ghettoisation, c’est à dire à enfermer les vietnamiens dans un monde de Vietnamiens.
Sự tham gia của người Việt Montréal thuộc thế hệ thứ hai vào các nhóm và hội đoàn Việt Nam rất ư là mập mờ…Ngoài ra, những ý kiến thu lượm được về những tổ chức hội đoàn nói trên phần nhiều là rất tiêu cực. Thí dụ, giới trẻ nói rằng họ không tin cậy các hiệp hội có tôn chỉ đề cao một vài khía cạnh của nền văn hóa Việt Nam. Một số thì không thích cách thức buổi lễ được tổ chức cũng như họ không ưa một số khuôn mặt nào đó. Có những người khác thì cho rằng mục đích chính của các hội đoàn là nhằm gom người Việt lại với nhau trong một thế giới riêng của người Việt không khác gì tạo ra những ghetto (L.J. Dorais, trg114).
«...Thật vậy, tôi tự nhận tôi là tôi.Tôi không chối cãi tôi là Việt Nam, vì lúc đi ra ngoài đường, người ta hỏi quốc tịch tôi là gì…Tôi muốn nói tôi là người Á Đông, nhưng đồng thời tôi cũng là Việt Nam…Tôi tự cảm nhận tôi chỉ là tôi. Tôi không phải là người Việt, mà tôi cũng không phải là người québecoise. Tôi là tôi. Tôi tự hào trong thâm tâm, mình là mình (nữ 21t, định cư Québec lúc 4t, trg115).
Growing up an Asian Canadian is not an easy task. Sure, I was born a Canadian but my parents are Vietnamese. I clearly look Vietnamese, but am I a true Vietnamese girl/behind this Asian face I wear, two different cultures are at war. At home, the Vietnamese mentality reigns; at school, I must act differently to integrate myself.
“Trưởng thành như một người Canada gốc Á không phải là chuyện dễ dàng đâu.Thật vậy, tôi sanh ra là Canadian, nhưng cha mẹ tôi là người Việt Nam. Rõ ràng tôi giống người Việt Nam, nhưng có phải tôi là một phụ nữ Việt Nam đúng nghĩa không" Đàng sau bộ mặt Á châu mà tôi mang, có hai nền văn hóa đang xâu xé lẫn nhau. Ở nhà, cái mentalité Việt Nam ngự trị  và ở trường tôi phải hành sự khác đi mới hội nhập được (Nguyễn Tuyết Nhung, Liên Hội Sinh Viên VN Montréal 1998, trg 117).
Pour Méthot (1995), les jeunes Viéto-Montréalais construisent leur identité en fonction des images qu’ils ont de la société dans laquelle ils vivent et des gens qu’ils côtoient quotidiennement.
Theo Méthot (1995), giới trẻ Montréal xây dựng identité dựa trên hình ảnh có được từ xã hội đang sống và từ những người mà họ tiếp xúc hằng ngày (trg 116).
Lo làm việc…Lo cho cuộc sống của mình, con đường nhỏ bé mình đi một mình ên…Chấp nhận trách nhiệm của chính mình. Đó là những điều tôi thật sự quyết định làm. Thí dụ, khi tôi phải lo buổi cơm tối ở nhà cha mẹ, tôi phải làm như thế nầy, như thế kia…không được như vầy, không được như thế nọ…Thật sự là chán ngán! Nay, thì tôi về nhà lúc nào tôi muốn. Bởi thế mà tôi đã bỏ đi ở riêng. Tôi thật sự cần có đời sống của riêng tôi, tôi muốn làm gì thì làm, tôi tự quyết định những gì mình muốn làm. Tôi không cần phải nghe Pa Má tôi phán: «Không, đừng làm như vậy, đừng, đừng và đừng…»! Để cuối cùng mình không được làm gì hết (nữ 21t, định cư Québec lúc 4t, trg 119).


Với cha mẹ tôi, rõ ràng là Ổng Bả còn mang mentalité của Việt Nam. Ổng bả muốn con cái mình học y khoa hoặc lãnh vực khoa học về sức khỏe. Nếu mình không làm theo như ý, ổng bả xem đó là một sự thất bại. Và ổng bả tối ngày đem mình ra so sánh với con của người khác… Nhìn theo một khía cạnh nào đó thì ổng bả đang hạ giá trị mình xuống. Chắc chắn là trên một bình diện nào khác, cha mẹ mình ước mong điều tốt cho mình, nhưng khi mình không có khả năng là mình không thể làm được. Chấm hết! (nam 22t, định cư tại Québec lúc được 6 tháng tuổi, trg 120).
Ổng bả đem so sánh mình một cách không thương tiếc với người khác. Việc đó làm mình rất bực bội vì mình lúc nào cũng cảm thấy bị đặt trong tình trạng phải tranh đua, và lúc nào mình cũng vẫn là người thua cuộc hết (nam 19t, sanh tại Québec, trg 120).
Vâng, chúng tôi có với nhau một mối quan hệ rất tốt đẹp ngoại trừ việc Pa Má tôi còn mang nặng cái đầu óc, cái mentalité quá Việt Nam hoàn toàn khác biệt với tâm ý mentalité của dân bên nầy. Cái gì cũng gắt gao, cũng đều bị ổng bả kiểm soát hết. Khi tôi nói tất cả, thật sự tất cả bất cứ chuyện gì. Một mặt khác, tôi không muốn làm xúc phạm đến cha mẹ tôi, và làm họ phải buồn lòng. Nói chung thì nó như thế đó, đó là một vấn đề về quyền tự do (nam 19t, sanh tại Québec, trg 121).
Cha mẹ tôi thuộc về một thế hệ khác. Về mặt sinh hoạt, tôi thường ham đi chơi với bạn bè khiến ổng bả rất bực mình. Những chuyện như thế lúc nào cũng làm ổng bả khó chịu hết (nam 25t, đến Québec lúc 6t, trg121).
Dù rằng tôi rất yêu quê hương, tôi cũng không muốn về sống ở bên đó.Tại vì tôi đã sống nhiều năm bên nầy rồi, nếu về bển, tôi cần phải có nhiều năm để thích nghi lại. Không, tôi nghĩ tôi không về Việt Nam để sống đâu vì tôi đã quá quen cuộc sống ở bên đây rồi (nữ 17t, đến Québec lúc 5t, trg128).
Có những điều mà tôi không ý thức được. Như gần đây, tôi đi chơi Núi Mont Tremblant với vài người bạn gồm có một bạn da đen và hai bạn Á châu. Chúng tôi bị một nhà hàng từ chối, viện lý do không còn bàn nào trống hết, mặc dù thật sự không phải như thế (nam 28t, sanh tại Toronto, trg130).
Tôi biết là vấn đề kỳ thị có ở đây. Những nơi tôi làm việc, thì không có, nhưng ngoài đường đôi khi nó xảy ra cho chính tôi do các đứa nhỏ, những thiếu niên gây ra…Chả có gì quan trọng cho tôi vì tụi nó không hiểu những gì tụi nó đang làm...(nữ 28t, đến Québec năm 1988, trg191).
Cũng có một số dân Québecois rất lạnh nhạt thờ ơ, như thể họ đến từ hành tinh khác. Họ chả biết gì ráo. Có một hôm, có một ông nọ đã hỏi tôi:Người BắcTonkinois" Là ở đâu đến vậy" Rồi ông ta lại hỏi lúc xưa gốc gác tôi ở đâu" Tôi trả lời, tôi là người Việt Nam. Rồi ông ta hỏi tiếp theo: Là xứ nào vậy" Trời ơi, ông ta là người cũng phải trên 30 tuổi rồi…Nhưng đối với những người có đi du lịch thường thì khá hơn, hiểu biết nhiều hơn…(nữ 24t, định cư Québec 83,trg191).
Thành thật mà nói, tôi cho tôi là người Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là người Québecois. Tôi phải nói sao đây" Tôi có một mentalité thiên nhiều về Việt Nam, tôi còn nhiều gốc gác Việt Nam, ngoại trừ thời niên thiếu ở đây tôi thường sống với người Québecois. Nhưng tôi thường nghĩ rằng lúc nào tôi cũng là người Việt Nam nhiều hơn là người Québecois (nam 22t, sanh tại Québec, trg 204).
Tôi là người Việt Nam và tôi sống tại Canada. Chỉ thế thôi! (nam 50t, định cư 1982, trg 204).
Tôi là Québecois và Việt Nam. Tôi đẻ bên Việt Nam nhưng tôi không còn nhớ gì hết.Tôi đi học ở đây, bạn tôi là người Québecois. Tôi nghĩ rằng tôi có mỗi thứ một nửa (nam 24t, đến Québec năm 80, trg 204).
Tôi cảm thấy rất thích hợp ở đây, và thích nghi tốt đẹp vào đời sống Québec. Tôi vẫn giữ nét Á châu nhưng tôi vẫn có thể thích nghi vào một nền văn hóa khác hơn  nền văn hóa Việt Nam (nữ 46t, đến Québec 81,trg 204).
Mối giao tiếp của tôi phần lớn là với người Québecois.Tôi cảm nhận, một nửa của tôi sống theo kiểu Québecois và tôi vẫn giữ một nửa Việt Nam. Có nghĩa là chỉ tôi tiếp thu những điều tốt đẹp của xứ nầy mà thôi (nam 51t, đến Québec 84, trg 205).
Tôi không có thể nào nói được tôi hoàn toàn là người Việt Nam cả. Khi tôi nói chuyện với các bạn tôi thì tôi cho rằng tôi là người Việt Nam, người Québecoise hay là người Canada. Không khác gì tôi là một phụ nữ quốc tế (nữ 42t, đến Québec 82, trg 205).
Tôi không còn biết thật sự ra xứ sở của tôi là Canada hay là Việt Nam nữa. Tôi không biết…Có thể tôi xem cả hai đều là xứ sở của tôi hết (nam 23t, đến Québec 92, trg 205).
Đúng vậy, tôi rất quan tâm đến chuyện bên nhà, tôi nôn nóng lắm, có thay đổi bên đó nhưng vẫn còn cái mentalité cộng sản. Dù sao, Việt Nam cũng là quê hương của cha mẹ tôi, tôi muốn hiểu rõ hơn những gì xảy ra bên đó (nam 22t, sanh tại Québec, trg 209).
Rất quan trọng đối với tôi, vì tôi thương người dân bên đó. Tôi không muốn nhìn thấy cảnh họ bị áp bức, đàn áp, đói khổ…Tôi tin tưởng rằng mọi người có quyền sống theo ý họ muốn của họ…(nam 46t, định cư tại Québec 81, trg 209).
Vâng, tôi rất quan tâm đến tình hình chính trị của Québec và Canada nhiều hơn là của Việt Nam.Tôi thường theo dõi trên TV các cuộc tranh luận chính trị tại quốc hội Québec hoặc Ottawa. (nam 42t, đến Québec năm 75, trg 185).
Vâng, rất quan trọng vì tôi là Québecois và Canada là xứ sở của tôi. Tôi có bổn phận với tư cách là một cử tri…(nam 24t, đến Québec 1980, trg 185).
Giới trẻ có một tương lai tốt trước mắt. Chắn chắn là họ sẽ quên đi…Họ quên rất mau nếu không có ai nhắc nhở họ thế nào là văn hóa Việt Nam (nam 33t, đến Québec 82, trg 189).
Tôi nghĩ rằng, theo cái đà nầy thì trước sau gì họ cũng sẽ bị mất gốc hết. Bởi vì ngày nay, họ muốn thích nghi, nhất là đối với lớp trẻ. Đối với bọn trẻ, sanh bên nầy hay bên nhà cũng vậy, tôi thiết nghĩ như họ thường hay nói «Bof!». Họ từ từ sẽ thích nghi, và sẽ đồng hoá với tất cả mọi người (nữ 17t, đến Québec 1991, trg 189).
Kết luận của tác giả Louis-Jaques Dorais
Cho dù tương lai sẽ ra sao, nó vẫn thuộc về của giới trẻ. Tại Montréal cũng như tại những nơi khác, người Việt thuộc thế hệ thứ hai hoặc thứ ba sẽ lần hồi thay thế bậc cha anh trong việc điều hành các vấn đề cộng đồng của người Việt Nam. Chính nhóm trẻ sẽ quyết định là có cần nên bảo tồn hay không một vài nét đặc thù tiêu biểu của identité Việt Nam hay ngược lại. Tốt hơn hết là chúng ta nên hòa nhập trọn vẹn vào nhóm đa số Québec và Canada bằng cách theo đuổi tất cả cách sống của họ, cũng như những giá trị và biểu thị trổi bật của xã hội Bắc Mỹ.
Quel que soit l’avenir, il appartient aux jeunes. À Montréal comme ailleurs, les Vietnamiens de la seconde et de la trosième génération vont progressivement remplacer leurs ainés đans la conduite des affaires communautaires et la définition de l’ethnicité vietnamienne. Ce sera donc à eux de décider si cela vaut la peine de préserver une certaine spécificité identitaire ou, au contraire, s’il est préférable de se confondre complètement dans le Québec et le Canada majoritaires, en adoptant la totalité des pratiques, des valeurs et des représentations qui prévalent en Amérique du Nord ./. (Louis J. Dorais ) Trg 222
Tham khảo:
-Eric Richard, Univ Laval, Québec: Une identité vietnamienne transnationale" Le cas des Vietnamiens de Montréal.
http://pages.usherbrooke.ca/sodrus/pdf/pdf_colnov05_1/comm_eric_richard.pdf
-Louis-Jacques Dorais, Univ Laval,Québec: Identités vietnamiennes au Québec
http://www.erudit.org/revue/RS/2004/v45/n1/009235ar.html
-Statistics Canada 2006. The vietnamese community in Canada
http://www.statcan.gc.ca/pub/89-621-x/89-621-x2006002-eng.htm
-Nguyễn Vy Khanh. Cộng đồng người Việt ở ngoài nước 30 năm sau
http://www.scribd.com/word/full/6131370"access_key=key-2l047l6mbs4zrmopbxrw
-Lâm văn Bé. Dung hòa hợp lý.
http://www.khoahoc.net/baivo/lamvanbe/210808-dunghoahoply.htm
-Huy Lực Bùi Tiên Khôi Ph.D. Truyền thống hiếu học của người Việt Nam: sự thành công của người thanh thiếu niên Việt nam tại Hoa Kỳ.
http://www.khoahoc.net/baivo/huylucbuitienkhoi/291009-truyenthonghieuhoc.htm
- Trần Giao Thùy. Người Việt ở Mỹ. Vẻ vang dân Việt
http://saigonecho.com/main/cdviettynan/xaydungcdviet/13373.html
-Suzana Loubet Del Bayle. Les Vietnamiens en République tchèque: le long chemin de l’émancipation.
http://www.regard-est.com/home/breve_contenu.php"id=982&PHPSESSID=...
Montréal, Nov 02, 2009

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.