Hôm nay,  

Sách Mới Của Gs. Nguyễn Tiến Hưng: “mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Sàigòn”(2)

08/04/201000:00:00(Xem: 7933)

Sách mới của Gs. Nguyễn Tiến Hưng:  “Mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Sàigòn”(2)
Chuyện Mật TRONG CHUYẾN ĐI BÍ MẬT

Trên cột báo này, những ngày qua có loạt bài về trận chiến mới giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.  Nhân Tháng Tư đang tới,  xin cùng nhìn lại trang sử cũ của chính chúng ta, khi Hoa Kỳ dùng Việt Nam làm bàn đạp để nói chuyện với Trung Quốc. Rồi cho bàn đạp này tuột xuống biển đỏ.
Bài viết sau đây trích từ  cuốn sách mới của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng -tác giả “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” và “Khi Đồng Minh Tháo Chạy”- đề cập tới những đổi chác của Tổng thống Richard Nixon khi cần bắt tay Trung Quốc. Hoặc nói như Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng: "Mở cửa Bắc Kinh, Đóng cửa Sàigòn".
Hình bên: Kissinger-Chu Ân Lai


Kissinger đi Tầu
Cuộc du hành được quyết định vào các ngày 9-11 tháng 7, 1971. Để đánh lạc hướng báo chí, trước khi lẻn đi Bắc Kinh ông lại bay vào Sàigòn, lý do chính thức là để thăm viếng Tổng Thống Thiệu nhưng thật ra là để vận động thay ông Thiệu trong cuộc bầu cử Tổng Thống sắp tới. Tại Sàigòn lúc ấy việc chuẩn bị bầu Tổng Thống đang gặp khó khăn giữa các ứng cử viên. Tốt đẹp nhất cho Kissinger là nếu ông Thiệu thất cử kỳ này là xong chuyện, khỏi phải mật đàm về   giải pháp chính trị  . Bởi vậy, Kissinger đi gặp đủ mặt các chính trị gia ở Sàigòn, kể cả Tướng Dương Văn Minh. Nhưng kết quả là ông Thiệu cứ tranh cử dù là độc diễn.
Trong chuyến Bắc Kinh đầu tiên này, ta tạm gọi là Bắc Kinh I, dù mục đích chỉ là để sắp xếp cho chuyến đi của Nixon, Kissinger lại làm thêm việc là thông báo cho Bắc Kinh nhượng bộ ở Paris (ngày 31 tháng 5, 1971). Đây là cơ hội tốt để ông rỉ tai cho Chu Ân Lai biết lập trường thực sự của ông, nhờ cậy Trung Hoa giúp đỡ. Ông tiết lộ với họ Chu hai điểm:
* Thứ nhất, "Chúng tôi sẽ rút quân đơn phương".
Hai mươi bẩy năm sau khi Miền Nam sụp đổ, ngày 28 tháng 2, 2002, tờ New York Times tiết lộ một sự kiện động trời: Biên bản buổi họp giữa Chu Ân Lai và Kissinger ngày 9 tháng 7, 1971, ghi nhận Kissinger đích thân nói cho họ Chu biết: "Thương thuyết hay không thương thuyết với Bắc Việt, sớm muộn gì chúng tôi cũng sẽ rút quân - đơn phương."
 Khi được hỏi về chuyện này, ông Stanley Karnow, một sử gia có tiếng về Việt Nam, đã nói: "Đơn phương là điểm chính yếu, và đó là điều mới mẻ đối với tôi." Ông Karnow kết luận rằng lập trường trước sau của Hoa Kỳ về việc rút quân vẫn là cả hai bên đều phải rút.
Mới đây, lại có những tài liệu giải mật về chuyến đi này. Trong buổi họp ngày 9 tháng 7, 1971 với Chu Ân Lai, Kissinger nói rất rõ ràng (xem phụ lục):
"Thay mặt Tổng Thống Nixon, tôi muốn thông báo hết sức trịnh trọng để Thủ Tướng hay rằng, trước hết, chúng tôi sẵn sàng rút quân hoàn toàn khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi (gạch dưới cho tác giả). Thứ đến, chúng tôi sẽ để mặc cho tình hình chính trị ở Nam Việt Nam diễn biến và để cho người Việt tự giải quyết với nhau."
Kissinger còn bảo đảm với họ Chu rằng: "Chúng tôi sẽ không tái nhập Việt Nam và sẽ tôn trọng tiến trình chính trị." Ông luôn nói tới một   Tiến trình chính trị  ,   tiến trình lịch sử  , hay   diễn biến chính trị   tất cả đều chỉ có một ý nghĩ là bắn tin cho đối tác biết rằng cứ để cho việc gì phải đến thì nó sẽ đến, tức là chính phủ Miền Nam sẽ bị gạt đi.
* Thứ hai, "Chúng tôi chỉ cần một thời gian chuyển tiếp".
Nhưng   tiến trình chính trị   ấy đòi hỏi một thời gian coi cho được. Bởi vậy, ngay hôm sau, ngày 10 tháng 7, 1971, ông minh xác với ông Chu:
"Điều chúng tôi cần là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị. Không phải là để chúng tôi có thể trở lại, nhưng là để cho dân tộc Việt Nam và các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của  mình... Tôi đã nói với Thủ Tướng ngày hôm qua, và tôi muốn nhắc lại rằng, nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, chúng tôi sẽ không can thiệp."
Ông Kissinger luôn luôn chối rằng mình đã chỉ sắp xếp với Hà Nội một khoảng thời gian coi cho được   A decent interval   giữa việc Mỹ rút hết quân và việc Miền Nam sụp đổ. Như vậy là bây giờ thì lịch sử đã có đủ bằng chứng là ông đã nói dối. Trong phiên họp ngày hôm trước, ông còn cố gắng thuyết phục họ Chu:
"Lập trường của chúng tôi là không duy trì một chính quyền nào ở Miền Nam, và nếu chính quyền Nam Việt Nam không được nhiều người ưa thích như ông nghĩ thì sự rút quân càng nhanh bao nhiêu, chính quyền ấy càng bị lật đổ mau lẹ bấy nhiêu. Và nếu nó bị lật đổ sau khi quân đội chúng tôi đã rút đi thì chúng tôi sẽ không can thiệp nữa."


Ngày 15 tháng 7, 1971, từ Bắc Kinh về, Kissinger báo cáo về chuyến du hành cho Nixon: "Hậu quả (chuyến đi của tôi) đối với cuộc chiến Việt Nam có thể rất sâu xa. Khi tôi từ giã, ông Chu đã chúc tôi mọi sự tốt lành trong việc hòa đàm. Mặc dù tôi không tin rằng các lãnh đạo Trung Hoa có thể hay sẽ làm được gì nhiều để giúp đỡ trực tiếp, chuyến đi của tôi sẽ là một thất bại lớn cho Hà Nội."
Nixon hết sức vui mừng. Hai ngày sau, ngày 15 (hay 17") tháng 7, 1971 tại đài truyền  hình NBC ở Burbank, California, Tổng Thống Nixon loan báo tin tức quan trọng. Ông tuyên bố sẽ thăm viếng Trung Hoa vào đầu năm tới sắp tới, đồng thời tiết lộ về chuyến đi Bắc Kinh bí mật của Kissinger để thảo luận về cuộc viếng thăm. Lên tivi xong, Tổng Thống và đoàn tùy tùng kéo nhau tới nhà hàng lịch sự Perino để ăn mừng sự kiện lịch sử. Nixon gọi loại rượu Pháp thượng hạng mà ông rất ưa thích, chai Château Lafitte-Rothschild để ăn mừng, mọi người nâng ly chúc tụng. Đây là ngày oanh liệt của cả hai chính trị gia.
Từng Bước Âm Thầm.
Như vậy, tới lúc này là Mỹ đã bằng lòng nhượng bộ, chấp nhận Hoa Kỳ sẽ rút quân đơn phương và sẽ ấn định ngày giờ sẽ rút. Dĩ nhiên là Bắc Kinh thông tin lại cho Hà Nội. Tuy nhiên việc   ấn định ngày giờ để rút   cũng chưa rõ ràng, và Hà Nội chưa chấp nhận. Tại mật đàm Paris, ông Xuân Thủy vẫn đòi Hoa Kỳ phải chỉ định rõ ràng một hạn chót là bao lâu để rút hết quân, và hạn chót này không có liên hệ gì tới bất cứ khía cạnh nào khác của cuộc đàm phán.

* OK, chúng tôi sẽ rút hết quân trong vòng 9 tháng.
Chỉ một tháng sau khi ăn mừng tin vui từ Bắc Kinh, cánh cửa vào Sàigòn lại đóng thêm một nấc. Ngày 16 tháng 8, 1971, ông Kissinger bí mật đưa ra một đề nghị mới về hòa bình. Trong hồi ký, ông chỉ nói lơ mơ về cuộc họp này, không đá động gì tới vụ   9 tháng   nhưng chúng tôi đã tìm ra được chứng cớ trong một tài liệu ít người để ý, TT Nixon hằng năm phải báo cáo cho Quốc Hội về lãnh vực ngoại giao, chính ông đã tiết lộ rằng ngày hôm ấy, ông Kissinger đã đề nghị (như để đáp lại sự lo ngại của ông Xuân Thủy). (10) -không thấy số (9)-
- Triệt thoái toàn bộ quân đội Mỹ và Đồng Minh trong vòng 9 tháng kể từ ngày ký hiệp định; bởi vậy,
- Nếu chịu ký hiệp định vào ngày 1 tháng 11, 1971 thì ngày chót để rút hết toàn bộ là ngày 1 tháng 8, 1972.
(Ghi chú: Như vậy, ta thấy lẽ ra Hiệp định Paris đã kết thúc vào ngày Quốc Khánh VNCH năm 1971 chứ không phải tháng 1, 1973).

* Rút Quân: Từ 9 tháng giảm xuống còn 7 tháng.
Nhưng giảm xuống 9 tháng cũng chưa đủ. Theo Tổng Thống Nixon thì "Tại cuộc họp ngày 13 tháng 9, 1971, Hà Nội bác bỏ đề nghị của chúng ta vì hai lý do: thứ nhất, thời gian (9 tháng) là quá lâu, và Hoa Kỳ không định nghĩa thế nào là rút đi toàn bộ; và thứ hai, họ cho nguyên tắc giải quyết vấn đề chính trị là chưa đầy đủ." (11)
Bởi vậy, ngày 11 tháng 10, 1971, theo chỉ thị của ông Kissinger, Tướng Vernon Walters đem ra một đề nghị mới, theo đó thời gian rút quân được giảm từ 9 xuống 7 tháng, và việc rút quân được định nghĩa chi tiết hơn: "Tất cả quân đội Hoa Kỳ và Đồng Minh, trừ một số nhỏ cần thiết cho những công tác kỹ thuật và tiếp liệu sẽ rút hết vào ngày 1 tháng 7, 1972 nếu hai bên ký một lời tuyên bố trên nguyên tắc vào ngày 1 tháng 12, 1971." (gạch dưới là do tác giả) (12)

* Từ 7 tháng xuống 6 tháng.
Trước khi đi Bắc Kinh vào những ngày 21-28 tháng 2, 1972, Tổng Thống Nixon lên tivi tiết lộ việc ông Kissinger bí mật hòa đàm với Hà Nội từ 1969, đồng thời tuyên bố một đề nghị hòa bình mới. Điều quan trọng của đề nghị là thời gian rút quân của Hoa Kỳ được ấn định là 6 tháng. Đâu có ai biết là từng bước từng bước âm thầm, Hoa Kỳ đã rút quân đơn phương, rồi đặt ra thời hạn là 9 tháng, sau đó, rút xuống 7 tháng, và bây giờ là 6 tháng"

* Giảm xuống thành 4 tháng.
Ngày 8 tháng 5, 1972 trước khi đi họp thượng đỉnh ở Moscow, Tổng Thống Nixon lên tivi đưa ra một đề nghị mới là quân lực Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Miền Nam Việt Nam trong vòng 4 tháng và chỉ với hai điều kiện, đó là ngưng bắn và trao trả tù binh.

* Sau cùng là 2 tháng.
Ngày 8 tháng 10, 1972 là ngày lịch sử của mật đàm (xem chương sau). Trong buổi họp mật ở Paris, ông Lê Đức Thọ đề nghị một thời gian là 2 tháng. Như vậy là dung hòa: 4 tháng chia đôi là 2 tháng. Ông Kissinger liền vui vẻ chấp nhận. Tới đây thì vấn đề căn bản về rút quân coi như đã được giải quyết hoàn toàn.
Kỳ tới: Kịch bản ba bước đẩy VNCH xuống hố
NGUYỄN TIẾN HƯNG

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.