Hôm nay,  

Hình Ảnh Bậc Tôn Sư Còn Hiển Hiện

23/07/200800:00:00(Xem: 8623)
(Cựu học Tăng Tu Viện Nguyên Thiều, niên Khóa 69-70.)

Hai chiếc xe đò lớn Miền Nam đã đậu sẵn trong sân Phật Học Viện Huệ Nghiêm từ sáng sớm để đưa hai chúng Hư Vân và Khuông Việt về miền Trung theo chương trình thiên chuyển của Phật Học Viện, chỉ còn chúng Thế Thân ở lại.

Tâm trạng quý Thầy học Tăng lúc bấy giờ, từ miền Nam đổi ra miền Trung, nhất là các tỉnh Phan Rang, Bình Định, ai nấy đều bồn chồn, lo lắng, nhưng vì chương trình thiên chuyển của Phật Học Viện nên phải "y giáo phụng hành" mà không dám có ý kiến. Người ở lại - chúng Thế Thân, thì dường như bàng quan, vô sự - người phải đi, chúng Hư Vân và Khuông Việt thì không tránh khỏi lo âu, lo âu vì không hiểu những chuỗi ngày sắp tới, đời sống nơi ấy ra sao" Nhưng rồi, cái gì phải đến thì sẽ đến. Tất cả quý Thầy học Tăng phổ thông vân tập trước phòng Hòa thượng Giám Viện Thích Bửu Huệ, đảnh lễ Ngài để từ giã. Hai chiếc xe đò chuyển bánh trực chỉ miền Trung, chiếc thứ nhất đổ học Tăng Khuông Việt xuống chùa Tỉnh Hội Phan Rang. Chiếc thứ hai tiếp tục đoạn đường ra Bình Định, Tu Viện Nguyên Thiều, nơi mà chúng Hư Vân theo học niên khóa 69-70 tại đây.

Trước khi vào cổng Tu Viện, xe phải đi qua cầu "Bà Gi" quẹo phải, rồi bò lên con dốc đất đỏ mịt mù, trong cái nắng chói chan, chỉ thấy sỏi đá toàn là sỏi đá. Bên phải con dốc đá sỏi ấy là căn cứ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh, bên trái đỉnh đồi là 2 tháp Chàm sừng sững với thời gian, trải qua bao lần nắng mưa tầm tã, chứng kiến bao cảnh phế hưng dâu biển, hoài vọng về quê hương, dân tộc Chiêm Thành điêu tàn, đổ nát gần như diệt chủng. Đây là quê hương tổ tiên của Chế Bồng Nga, Chế Lan Viên hay Chế Cũ, Chế Mân thời ấy.

Xuống cuối dốc bên trái là chánh điện Tu Viện Nguyên Thiều, bên cạnh phía sau là Kim Thân Phật Tổ. Xe chạy thẳng tới trước là cư xá học Tăng. Nhìn toàn cảnh Tu Viện chỉ thấy một màu đất khô đỏ, chung quanh Tu Viện được bao bọc bởi hàng rào kẽm gai. Khó mà đoán được quý Thầy học Tăng đã suy nghĩ gì khi nhìn thấy khung cảnh  Tu Viện lúc ấy.

Người tiếp nhận học Tăng là Hòa thượng Đồng Thiện, Hòa thượng Đổng Quán. Nhìn qua dáng dấp của hai Ngài, hầu như ai cũng cảm thấy một chút lo lo, sờ sợ.  Cái gì đó, thật khó nói. Và cái khó nói, sờ sợ, lo lo đã đến. Sau giờ công phu khuya của sáng hôm sau, Hòa thượng Đổng Quán đã áp dụng kỷ luật, kết quả là 5 học Tăng phải xách giỏ trở về miền Nam sau mấy ngày.

Cuộc sống của những chuỗi ngày kế tiếp, bình thản, trong niềm yêu thương quý kính của tình Thầy trò, Ban Giám Đốc và học Tăng, mọi người cùng hiểu ra: bước đầu Hòa thượng Đổng Quán đã gầm tiếng hống sư tử để thử lòng học Tăng trong buổi giao thời, ai kiên cố và quyết tâm, ai tu học vì lý tưởng của kẻ xuất gia, ai giữ gìn sơ phát tâm vì chí hướng giải thoát. Quý Thầy học Tăng thấy được tâm khoan dung, lòng độ lượng của Hòa thượng đã lo lắng mọi bề cho học Tăng. Hình ảnh của Hòa thượng đến nay vẫn còn đậm nét trong tâm thức của nhiều thế hệ học Tăng chúng con.

Riêng Hòa thượng Đồng Thiện, là người nuôi học Tăng từng bữa sớm hôm, từng bát canh rau muống, tới tô bí đỏ quanh năm với hai lu tương hột đậu nành suốt tháng. Nhưng Hòa thượng vẫn kiên trì nuôi học Tăng ăn học thành tài. Tấm lòng Hòa thượng bền bỉ vững chắc như sự bền bỉ vững chắc của mảnh đất Tu Viện Nguyên Thiều. Dù nắng, dù mưa, dù khô cằn sỏi đá, mảnh đất Tu Viện Nguyên Thiều vẫn nuôi lớn cỏ cây, hoa lá, nuôi lớn những luống rau muống tươi xanh, những hàng hoa huệ trắng, để nuôi học Tăng qua những ngày tháng nắng lửa mưa dầm ấy. Tình yêu thương, bảo bọc học Tăng của Hòa thượng bao la bất biến. Tấm lòng quý kính của học Tăng đối với Hòa thượng như đàn con đối với đấng Cha lành. Một đấng Cha lành bảo bọc đàn con năm sáu chục người, Ngài phải trồng rau muống, ủ phân bò, để làm phương tiện nuôi học Tăng ăn học. Hòa thượng phải thức khuya, dậy sớm vì tương lai của học Tăng, vì giềng mối của Đạo pháp, vì hạnh nguyện Phổ Hiền mà không từ nan khốn khó. Ngày hai buổi vác cuốc ra vườn, phơi lưng dưới cái nắng hè gay gắt của miền Trung mà vun, mà xới những luống rau dền, rau muống, tía tô, rau quế, rau húng cho từng bữa ăn trưa, chiều hai buổi. Cái ân ấy, cái đức ấy, cái hình ảnh ấy vẫn luôn sâu đậm trong tâm thức của đời người học Tăng. Làm sao có thể đền đáp cái ân, cái đức vô cùng ấy" Làm sao có thể quên được cái hình ảnh nửa đêm nghe tiếng động ngoài vườn rau muống, Hòa thượng cầm đèn pin ra rọi, canh chừng sợ có người cắt trộm rau muống của học Tăng. Những bát canh rau muống đầy ắp tình yêu thương của Hòa thượng đã được tưới bằng những giọt mồ hôi của Ngài để luống đất thêm mầu mỡ, để luống rau thêm xanh tốt và để cho tình Thầy trò thêm đạo vị. Sức sống là chỗ đó. Tình nghĩa Thầy trò là chỗ đó.

Cho đến một ngày, được tin Hòa thượng Giám Viện từ Sài Gòn về thăm Tu Viện, Hòa thượng Đồng Thiện dạy học Tăng quét dọn trong ngoài đâu đó sạch sẽ để mừng đón Hòa thượng Giám Viện. Cái cốc nhỏ nhắn của Hòa thượng Giám Viện, ẩn mình dưới bóng cây xoài, cây mít, ở tận ngoài vườn xa, mà một đôi năm mới được Hòa thượng Giám Viện Nguyên Thiều, Hòa thượng Thích Huyền Quang về ở một lần.

Hòa thượng Giám Viện về thăm Tu Viện, làm mọi người náo nức, vui mừng, không khí Tu Viện như rộn ràng hẳn lên. Suốt từ ngày thiên chuyển từ Sài gòn ra đây, quý Thầy học Tăng chưa một lần được đảnh lễ Hòa thượng Giám Viện, vì Hòa thượng bận Phật sự của Giáo Hội ở Sài Gòn, chỉ có nhị vị Hòa thượng Đồng Thiện và Đổng Quán trực tiếp chăm sóc chúng Tăng, vì thế nghe Hòa thượng Huyền Quang về thăm thì làm sao không háo hức mừng vui cho được" Nỗi vui mừng này như niềm vui của những đứa con lưu lạc lâu năm, nay được gặp lại người Cha quý kính. Người Cha già ấy đã bảo bọc bao lớp đàn con, bao thế hệ đã qua, bao lớp học Tăng đã ra trường thành người hữu dụng cho đạo, cho đời mà đến nay, hình ảnh của Hòa thượng còn rõ mồn một trong tâm tư. Lời nói, ánh mắt, dáng đi của Hòa thượng hiển đạt một bậc Thạch trụ Thiền gia, Long tượng Thạc đức. Đối với chư vị Sơn Môn Bình Định, Ngài là bậc Trưởng thượng Kỳ túc, một thời đã khai sơn phá thạch để gieo hạt giống Đạo pháp ăn sâu mọc rễ trên dải đất này. Ân đức của Hòa thượng đã thấm nhuần vào từng tâm can của Tăng tín đồ nơi đây. Vì thế, mỗi lần Hòa thượng về thăm Tu Viện là lòng người cảnh vật dường như hớn hở, tươi nhuận khác thường. Đó là cái uy, cái đức, cái tấm lòng từ bi của Ngài được trang trải đến mọi loài. Giữa cảnh núi đồi khô cằn sỏi đá, với cái nắng nóng như thiêu, như đốt trên vùng đất đỏ (thời đó, 1969-1970, chưa có cây cao bóng mát như bây giờ) mà có được bóng mát của cây đại thọ, là tổ ấm của chim muông. Giữa những Tòng Lâm, Tu Viện núi đồi cách trở, mà đôi ba năm Hòa thượng mới về thăm chúng Tăng một lần thì bảo sao chúng Tăng không mừng vui, háo hức cho được. Nỗi vui như mùa nắng hạ có cơn mưa lớn, như ngày hè oi bức có ngọn gió thanh lương.

Rồi cứ như thế, thời gian đến và đi, quá khứ thành hiện tại, hiện tại thành vị lai và vị lai thành quá khứ in tuồng như ảo, như ảnh, như bóng mờ còn núp trong tâm, để sau hơn một thập niên, người học Tăng thuở nọ, dưới mái Tu Viện Nguyên Thiều, giờ lại được nhơn duyên gặp lại Hòa thượng dưới mái Tu Viện Quảng Hương Già Lam Sài Gòn vào những năm 1980-1981. Hòa thượng đã giảng dạy kinh điển cho học Tăng nơi đây, truyền trao những kinh nghiệm làm việc cùng tài bồi đức hạnh của người xuất gia, cách sống làm người sao cho đúng nghĩa, đó là bài công dân đức dục mà Hòa thượng đã dạy trong buổi khai giảng niên khóa đầu năm. Nhưng rồi thời gian giảng dạy của Hòa thượng cho quý Thầy học Tăng Tu Viện Quảng Hương Già Lam chưa được bao lâu, vì vận nước còn điêu linh, chướng duyên nghiệt ngã, nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã bắt Hòa thượng tù đày, lao lý. Kể từ khi đó, một phần tư thế kỷ, Hòa thượng luôn đối diện với cảnh bắt bớ, đọa đày, gian nan, khốn khó. Nay thì ở nhà tù này, mai thì dời qua nhà tù khác, cuối cùng là lưu đày về nguyên quán Nghĩa Bình, nơi một ngôi chùa nhỏ, chơ vơ nơi đồng không mông quạnh. Ngày ngày với bát cơm hẩm, uống nước rong, tối ngủ trên chiếc võng bạc màu, rách nát. Nhưng tâm tư Hòa thượng vẫn sáng, sáng như gương, không chút vẩn đục. Không bị chi phối bởi cái đói, cái no, cái nóng, cái lạnh. Hòa thượng vẫn an nhiên tự tại, để đọc cho hết Tam Tạng Kinh điển, viết sách, Khoa Nghi để lưu lại cho đời sau tham học.

Dẫu biết rằng lẽ đời có thịnh, có suy, có thành, có bại, dù phải trải qua bao cảnh khốn cùng, nghiệt ngã, Hòa thượng vẫn giữ đạo trung dung, chẳng thiên vị ai, chẳng phiền hà, oán thán người đối xử tệ bạc với mình, vẫn nhẫn nhịn chịu đựng, nhưng không sợ sệt, yếu hèn, vẫn đứng vững trên đôi chân trước sức mạnh súng đạn, nhà tù của kẻ vô minh. Hòa thượng là biểu tượng của đức Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi. Hòa thượng đã dõng dạc tiếng hống sư tử giữa núi rừng u minh thăm thẳm, giữa đêm trường hiểm ác bủa vây. Hòa thượng là đóa sen tươi nhuận trong lò lửa đỏ của thời đại.

Như lời chư Tổ đã dạy: "Huyễn thân mộng trạch" Thân huyễn nhà mộng, Hòa thượng đã xả bỏ huyễn thân để thể nhập pháp thân. Giã từ cõi mộng để thể nhập chân thường. Đường đi không vết tích, lối về bặt tăm hơi. Đó là tự tánh của Thánh Giả, của bậc Đại Sỹ xuất trần, để cho hàng đại chúng: chẳng cầm được lòng thương tiếc, chẳng dứt được lệ đau buồn cho Phật Giáo Việt Nam đã vắng bóng một bậc cao Tăng kỳ vĩ, Hòa thượng đã đem đức Đại Hùng để chấn nhiếp ma quân thời đại, đem đức Đại Lực để chấn chỉnh đạo phong, và đem đức Đại Bi để ban vui cứu khổ. Do vậy, mà thời gian gần một thế kỷ làm người, Hòa thượng lúc nào cũng như bậc đứng đầu sóng cả, cầm cân nảy mực, lái con thuyền Đạo pháp vượt sóng gian, thoát cơn bạo để đem lại sự bình an cho đạo, hạnh phúc cho đời.

Hòa thượng quảy dép về Tây đó là công viên quả mãn một thời phát nguyện độ sinh, nhưng Phật Giáo Việt Nam, Tăng tín đồ Phật tử trong cũng như ngoài nước đã thật sự trống vắng, một sự trống vắng mênh mông vô bờ.

Nhớ thuở nào, Hòa thượng kính cẩn ôm trái tim bất diệt của Bồ Tát Quảng Đức vị pháp thiêu thân, đòi hỏi bình đẳng tôn giáo để giải trừ pháp nạn. Nhớ thuở nào, Hòa thượng vượt qua bao sự nguy nan, ách nạn của những bủa vây muôn trùng sắt thép để quỳ gối trước kim quan đức Đại Lão Hòa thượng Thích Đôn Hậu mà cất cao lời Cẩn Bạch để nhận ấn tín truyền thừa Đạo pháp, và khởi dựng công cuộc đấu tranh bất bạo động cho công lý, nhân quyền, tự do, dân chủ. Nhớ thuở nào, Hòa thượng cất bước lên đường mà không một sức mạnh nào cản trở, cuộc viếng thăm chư Tôn Đức Tăng, Ni từ Bắc chí Nam, để thấy được hàng triệu tấm lòng chư Tăng, Ni, Phật tử ngưỡng mộ bất diệt nơi Hòa thượng. Và những thuở ấy, trên chặng đường lịch sử Phật Giáo Việt Nam còn ghi đậm nét, như những dấu ấn in sâu trong lòng Đạo pháp, quê hương, dân tộc, giống nòi. Thân tứ đại của Hòa thượng có sinh thì có diệt, nhưng tánh đức nguy nguy, tiết liệt hùng hùng của Hòa thượng thì bất diệt.

Giờ đây, những người học trò xưa của Hòa thượng dưới các mái Tu Viện năm nào, thành kính tưởng niệm Giác Linh Hòa thượng mà giở lại từng trang Pháp Sự Khoa Nghi để thấy lòng quặn thắt, không ngăn được dòng nước mắt tiếc thương một bậc Tôn Sư suốt đời xả thân vì đại cuộc. Hòa thượng vui lòng nhận nỗi khổ, trước nỗi khổ của chúng sinh, và vui sau niềm vui của nhân thế. Ấy là hạnh nguyện độ đời kham nhẫn, là Bồ Tát hóa thân nơi chốn hồng trần, khi hạnh mãn nguyện tròn thì thâu thần thị tịch, đó là tâm vô quái ngại, ý hằng tự tại trong cuộc hóa duyên của Hòa thượng, nhưng người ở lại đâu chẳng ngậm ngùi:

"Niết Bàn một thuở ra đi,
Cân bình nửa gánh, Tây quy nhẹ nhàng.
Rừng Thiền vắng bóng hạc vàng,
Biển trần vượt khỏi muôn ngàn phong ba.
Người đi dấu vết chưa nhòa,
Bát y truyền lại sương pha lạnh lùng.
Tam sanh hẹn kiếp tao phùng
Tôn phong Tổ ấn gởi cùng non sông."

Hôm nay, tất cả môn đồ pháp quyến nhớ lại Giác Linh Hòa thượng như dòng Tiểu Sử được tập thành: Xưng dương công hạnh, tán thán gia phong, chí cả bạt quần, một thời Hòa thượng đã hiển bày hóa độ:

"Dòng họ thế gia
Môn phong Nho giáo
Tuổi thơ nhập đạo
Chí lớn xuất trần
Theo Thầy học đạo chuyên cần,
Và, tùng chúng tu thân tinh tấn.
Vuông tròn bổn phận:
Phục dịch chúng Tăng;
Đầy đủ khả năng:
Dắt dìu Phật tử "
Và từ đó:
"Một bát ba y
Xuân thu du hóa
Chín tuần mười hạ
Năm tháng tịnh tu
Tăng Ni bốn chúng tùng du;
Và Phật tử mười phương quy ngưỡng.
Sơn môn Hòa thượng,
Hải chúng Trung Tôn
Rường cột pháp môn
Nối dòng đạo giáo
Chơn tâm hạo hạo
Pháp tướng nguy nguy
... thiệu phái truyền y
... kế đăng tục diệm
Phật pháp chu toàn trách nhiệm,
Sư mô đầy đủ oai nghi
Trau dồi Trí tuệ Từ Bi,
Nuôi dưỡng pháp thân huệ mạng,
Thờ Thầy kính bạn
Giữ nước giúp dân
Trọn đời lạc đạo an bần
Suốt kiếp nghiêm thân tấn đạo
Hoằng dương Phật Giáo
Hàng phục ma quân
Xử thế đãi nhân
Tiếp độ Tăng chúng."

Để rồi công ấy, đức ấy như hạt sương, như cơn mưa tưới tẩm làm nhuần thắm đất tâm của bao người sùng phụng kính ngưỡng:

"Lòng mang nặng Tôn phong một gánh
Chân gập ghềnh Tổ ấn hai vai
Là người nhập thất Như Lai
Là bậc xuất gia Bồ Tát."

Nhưng rồi cái gì phải đến thì đã đến. Đến trong lúc cảnh đời nghiệt ngã, nhân tâm thác loạn, đạo lý suy đồi, giữa chốn phàm trần nhiều mộng tưởng:

"Thế rồi việc gì đã xảy ra"
Thật vô khả nại hà !
Hỡi ôi ! ... đèn thiền gió tạt!
... đuốc tuệ khói tan.
Cân bình vắng bóng Tăng hàng
Áo mão mờ trang giáo phẩm!
Để rồi:
"Ngắm phương trời lên cõi vô dư
Và, dò dẫm đất vào thành Bất thoái.
Lá rụng về cội
Nước chảy ra khơi
Ta bà xã báo một đời
Phật quốc nở hoa chín phẩm."

Giờ đây, nhục thân của Hòa thượng đang tĩnh tọa trên đỉnh đồi Nguyên Thiều thơ mộng. Bên cạnh phía sau là Kim Thân Phật Tổ đã hằn vết rêu phong năm tháng, nhưng không mất vẻ uy nghiêm, Từ bi muôn thủa nơi đấng Thế Tôn. Và phía dưới chân đồi là dòng sông Tân An rợp bóng tre xanh, bên cánh đồng lúa chín vàng. Dòng sông hiền hòa, tươi mát nên thơ của xóm làng, dân dã. Nơi đây, cứ mỗi chiều về hay giờ công phu buổi sớm, Hòa thượng nghe từng tiếng chuông u minh, tiếng đại Hồng ngân nga diệu vợi trên đỉnh đồi, gió ngàn mang đi khắp chốn:

"Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới
Thiết vi u ám tất giai văn
Văn trần thanh tịnh chứng Viên Thông
Nhất thiết chúng sanh thành chánh giác
Văn chung thinh
Phiền não khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sanh
Ly địa ngục
Xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật
Độ chúng sanh.
Án Dà Ra Đế Da Tóa Ha."

Dịch:
Nguyện tiếng chuông này vang khắp chốn
Thiết vi u ám thảy đều nghe
Nghe rồi thanh tịnh chứng Viên Thông
Tất cả chúng sanh thành chánh giác
Nghe tiếng chuông, phiền não nhẹ
Trí huệ lớn, Bồ đề sanh
Lìa địa ngục, khỏi hầm lửa
Nguyện thành Phật, độ chúng sanh
Án Dà Ra Đế Da Tóa Ha.

Tiếng chuông này, từ thời Hòa thượng còn sinh tiền đã bao nhiêu lần Hòa thượng thỉnh chuông và cầu nguyện, cho quốc thái dân an, cho Phật pháp trường tồn, cho Tăng Ni tín đồ thoát ly khổ hải. Hòa thượng một mình một bóng, lần chuỗi thỉnh chuông, niệm từng danh hiệu Phật cho đến ngày xả bỏ báo thân. Tâm Hòa thượng nhẹ như mây, bềnh bồng đó đây trong tam giới an nhiên tự tại, và thênh thang như gió, gió lộng trong hư không, mà chẳng mảy may bị cản trở.

Những hàng thông cao vút, những hàng bạch đàn reo lá với gió ngàn, tiếng kinh Mông Sơn Thí Thực chiều nay trên chánh điện sao êm đềm, thanh thoát như tiễn đưa, như cứu độ bao loài oan hồn uổng tử được siêu sanh.

Ánh trăng mười sáu soi rọi từng nhánh cây, kẽ lá trên đồi Nguyên Thiều, bóng trăng ẩn hiện, lấp lánh như muôn ngàn vì sao soi rọi bóng dáng ai bên cạnh chân Tháp, trên lối mòn dưới rặng cây, phất phơ tà áo vàng đang chống gậy trúc uy nghiêm hướng về cõi nhân gian miệng mỉm cười.

San Diego, ngày 18 tháng 7 năm 2008.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.