Hôm nay,  

Mùa Xuân Dharamsala

07/03/200700:00:00(Xem: 8908)

Mùa Xuân Dharamsala

...Khóa giảng hàng năm của đức Đạt Lai Lạt Ma là ngày hội cho Dharamsala...

Hàng năm, cứ sau Tết Âm lịch, Dharamsala lại như vào hội.

Đấy là khi đức Đạt Lai Lạt Ma mở khoá giảng hàng năm kể từ rầm tháng Giêng.

Nằm tại tiểu bang Himachal Pradesh ở miền cực Bắc Ấn Độ, Dhramsala là một thị trấn miền núi, bậc thềm bước lên Hy Mã Lạp Sơn - tên của tiểu bang nói lên điều ấy.

Là thủ phủ của quận Kangra, Dharamsala có thể được coi là một khu vực nghỉ mát. Tên Ấn Độ của thị trấn này là "Nhà nghỉ", và càng thích hợp với chức năng ấy khi người Anh tiến vào cai trị xứ Ấn Độ. Đây là nơi nghỉ hè của công chức Anh phục vụ tại New Dehli (thủ đô nay tên là Dehli).

Nhưng Dharamsala cũng là một trung tâm tôn giáo lâu đời, nơi dân Ấn lập ra nhiều đền đài theo Ấn Độ giáo, hiện hữu cùng các tu viện Phật giáo của di dân Tây Tạng, từ bên kia biên giới đi xuống, từ thế kỷ thứ tám. Rồi theo đà bành trướng của Ấn Độ, kiến trúc của người Ấn lấn lướt dần các tu viện Phật giáo Tây Tạng.

Thế rồi mọi thứ đều trở thành bình đẳng, gần như bình địa.

Một trận động đất lớn vào năm 1905 đã tàn phá cả hai thị trấn Dharamsala và Kangra trong khu vực. Động đất cũng khiến người Anh tìm nơi nghỉ mát tại Shimla, bên kia vết nứt địa chấn, cho an toàn hơn.

Một trận động đất khác - nhân tạo lần này - lại khiến Dharamsala hồi sinh.

Năm 1959, Trung Quốc tấn công thủ đô Lhasa và hoàn toàn thống trị Tây Tạng, khiến dân Tây Tạng phải theo đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong qua xứ Ấn. Sau khi dại dột đem thí Tây Tạng để "sống chung hoà bình" với Trung Quốc bằng cách khuyên Tây Tạng đừng chống đối mà nên nói chuyện với Bắc Kinh, Ấn Độ hồi tâm nghĩ lại khi nạn dân Tây Tạng từ bên kia biên giới dạt xuống. Vì vậy, năm 1960, Thủ tướng Jawaharlal Nehru mới đề nghị cho đức Đạt Lai Lạt Ma và dân Tây Tạng lập Chính phủ Lưu vong tại Dharamsala.... Từ đấy cộng đồng Tây Tạng lưu vong đã có đất tạm cư, và chọn vùng cao của Dharamsala, nơi còn dấu vết lại qua của tổ tiên họ từ nhiều thế kỷ trước.

Dharamsala có hai khu vực cao thấp cách nhau chừng mươi cây số, hãy tưởng tượng Đà Lạt với Đơn Dương chẳng hạn. Ở cao độ chừng 1.700 thước, McLeod Ganj là địa danh còn lại từ thời Anh của vùng cao, một trung tâm hành chánh và văn hoá. Bên dưới, vùng thấp của Dharamsala là một trung tâm thương mại ở cao độ 1.510 thước.

Một thành phố rất nhỏ, nói cách nhau vài trăm thước là một ý niệm về mặt phẳng. Trong thực tế, đó là vài trăm thước dốc! Đây là một thị trấn cheo leo và leo là quy luật!

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã chọn vùng cao, McLeod Ganj, làm nơi tái tạo lại một phần hồn của Tây Tạng với nhiều tu viện, đền thờ, trường học và một khu công thự dành cho chính quyền lưu vong. Vì vậy, khu vực McLeod Ganj đó còn có tên là Tiểu Lahsa, Little Lhasa, nơi có mấy ngàn người Tây Tạng cư ngụ cùng dân cư địa phương.

Và hàng năm, đến kỳ Monlam là Dharamsala lại như mở hội.

Đây là dịp người dân Tây Tạng tán thán công đức của chư Phật và đức Đạt Lai Lạt Ma giảng pháp cho chư tăng và dân chúng. Khoá giảng của Ngài khởi sự từ mùng ba và sẽ kết thúc vào ngày 13. Chư tăng ở đây là các nhà sư ở ba tu viện Tây Tạng tại Ấn Độ và nhiều tu viện khác trên thế giới. Khách thập phương ở đây quả là những người của thập phương. Đấy là các Phật tử theo đạo, nghe pháp và sinh hoạt tại các tu viện ấy, ở Ấn Độ và trên thế giới, trong số này, có cả tu viện Tây Tạng ở Long Beach của Hoà thượng Geshela. Ông đi từ Mỹ qua Ấn Độ dự khoá giảng này và cũng có riêng một khoá giảng vào những ngày cuối.

Tại Dharamsala, người ta có thể nghiệm thấy một điều. Chính quyền và hàng tăng lữ Tây Tạng là những người có ý chí và viễn kiến. Từ những năm đầu của thập niên 60, công thự của Tây Tạng được thiết kế đơn giản, trang trí bằng cùng loại hoa văn Tây Tạng và hoàn tất thành một khối thống nhất chứ không chắp vá theo lối "tùy hỉ", có bao nhiêu làm bấy nhiêu mỗi năm làm thêm mộ chút. Điều ấy phải nói vì đấy là một khác biệt với các ngôi nhà hay công thự Ấn Độ được thấy mọi nơi.

Cao nhất, kiên cố và rộng lớn nhất là một tu viện, kiêm viện nghiên cứu Phật giáo Tây Tạng. Trong tâm tư của lãnh đạo Tây Tạng, có ba vấn đề thường xuyên bật sáng là tự do cho quê hương và giáo dục cho dân chúng, tu tập cho tăng già. Tu viện này là một trung tâm giáo dục và tu tập tại Dharamsala. Nó nguy nga hơn dinh cơ của chính phủ.

Xây bên triền núi dốc ngược, tu viện này có bảy tầng cao thấp khác nhau và cao hơn dinh cơ của Chính quyền Tây Tạng và ngôi nhà của đức Đạt Lai Lạt Ma. Chung quanh quần thể kiến trúc ấy là những đỉnh núi tuyết ở xa và rất nhiều loại tùng bách và bá hương hay khuynh diệp.

Một ngôi chùa Việt Nam thường phát triển theo bề ngang và ẩn mình trong cây cỏ thiên nhiên, tu viện Tây Tạng lại nằm rất cao trên đỉnh núi, thường trông xuống thung lũng ở bên dưới. Người Tây Tạng quả là không thể quên vị trí nguy nga của thủ đô và cung điện Lhasa ở quê nhà.

Dinh Chính phủ và tư thất của đức Đạt Lai Lạt Ma quay về hướng Nam, đối diện với Tu viện, bước qua là một quảng trường nhỏ vuông vắn chưa đầy trăm thước, phân nửa sân có che bạt nylon màu vàng có trang trí hoa văn Tây Tạng. Đây là nơi mỗi ngày mọi người đến nghe vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng thuyết pháp.

Ngài bước từ trong dinh qua cổng sắt sơn trắng và chào hỏi rừng người ngồi chật dưới đất rồi vào một hàng hiên lớn của tu viện bước lên một đài nhỏ phủ gấm vàng, có tán, có lọng và ngồi theo thế kiết già trên một ghế bành lớn, trước mặt là một cần máy ghi âm. Đức Đạt Lai Lạt Ma lên tiếng là cả đường phố Dharamsala đều nghe thấy tiếng Ngài, vang vọng qua các triền núi nhờ hệ thống loa khuếch âm giăng mắc ở mọi nơi trên tu viện.

Dân số Dharamsala chỉ vỏn vẹn chưa đầy hai chục ngàn người, đa số là dân Ấn Độ, còn lại là mấy ngàn dân Tây Tạng và các nhà sư đang tu tập trong tu viện.

Khi đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết giảng, có chừng năm người ngồi nghe. Các nhà sư thì ngồi khắp mọi tầng lầu trong tu viện, khách thập phương thì ngồi đầy sân trước và tràn qua các bậc thang, bờ tường.

Nếu người ta có quên hoàn cảnh Tây Tạng thì việc tham dự khoá giảng này là một nhắc nhở. Mọi người đều đã phải liên lạc trước, từ xa, có thể là qua một tu viện Tây Tạng ở Hoa Kỳ, Na Uy, hay Hán Thành. Liên lạc trước để ghi danh và tới nơi là phải xin thẻ nhận diện, kèm theo tấm hình của mình. Nôm na là không phải ai đến cũng được.

Qua những con dốc hay ngõ ngách nhỏ để tiến vào tu viện, mọi người được yêu cầu không đem theo máy ảnh, điện thoại di động, bật lửa, thuốc lá hay võ khí. Không chỉ được yêu cầu mà còn được khám xét và lục soát rất kỹ. Đây là lý do vì sao độc giả không thấy tấm hình nào!

Nhưng, mọi người cũng được yêu cầu đem theo một ca nước và dù chẳng cần nhắc thì cũng đem theo nệm ngồi! Tùy nơi xuất phát, mỗi nhóm lại được phân cho một ô dưới đất. Như người Đại Hàn có vài chục thì phân nửa là các nhà sư, mặc đạo bào màu xám viền nâu của Phật giáo Đại Hàn.

Trong khoảng năm ngàn người ngồi nghe pháp, có lẽ phân nửa là các nhà sư Tây Tạng mặc áo đỏ. Tri trấn Dharamsala vào Xuân đã đỏ rực vì những tà áo này. Từ mờ sáng, khi các vị sư xếp hàng một - kỷ luật hơn các cư sĩ nhiều lắm - vào tu viện, ta thấy những cái đuôi dài trên bốn ngả dốc dẫn lên tu viện. Hình ảnh rất lạ và đẹp mắt.

Dù là mùa Xuân, khí trời Dharamsala vẫn còn lạnh, từ 45 đến 65 độ F, và còn lạnh buốt khi gió Xuân thổi lên. Trời trong xanh rất đẹp, bên dưới là một cảnh tượng lạ lùng. Dân Tây Tạng ăn mặc đầy màu sắc rực rỡ, có người còn mặc lễ phục - hãy nghĩ đến ngày Tết của ta. Các nhà sư - người Tây Tạng hay da trắng, nam và nữ, khá đông - thì mặc áo đỏ, nhiều người phải quấn khăn hay quấn chăn đỏ vì trời rất lạnh. Còn lại là khách quần phương với cách phục sức đa nguyên của họ!

Gần phân nửa những người ngồi nghe đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp là người da trắng. Còn lại là dân Á châu, da vàng. Người ta đến nghe từ tứ xứ, mỗi người lại một vẻ, rất lạ. Họ quấn khăn, đội mũ, choàng chăn, xách bị, cắp nệm bên nách. Có những người dị kỳ như pháp sư Thổ phồn trong truyện võ hiệp, có người như hippies tại Santa Cruz hay San Francisco, có người quấn tròn như con gấu theo kiểu New York, có người râu tóc bay trước gió như một Tạ Tốn da trắng. Nhiều người ăn mặc rất "casual", nhưng lịch sự với nhãn DKNY, giày Nikey, người đi dép râu Ấn Độ... Muôn hình muôn vẻ.

Nhưng, kỳ lạ vô cùng, khi có tiếng xướng danh của một vị sư Tây Tạng báo hiệu đức Đạt Lai Lạt Ma, mấy ngàn người ồn ào bỗng im phăng phắc. Và Ngài vừa bước ra là người ta quỳ, bò và nằm lạy dưới đất. Ba lần. Cả những nàng kiều nữ Bắc Âu lẫn các giáo sư Hoa Kỳ. Những người vào trễ và dù đứng dưới nên chẳng thấy đức Đạt Lai Lạt Ma họ vẫn kính cẩn quỳ lạy ba lần trên nền đất lạnh, rồi mới phủi áo tìm chỗ ngồi nghe. Hết chỗ thì leo lên bờ tường.

Mà làm sao nghe khi đức Đạt Lai Lạt Ma Tenzin Gyatso đời thứ 14 nói pháp bằng tiếng Tây Tạng"

Khoa học kỹ thuật có giải đáp!

Mỗi người được yêu cầu đem theo một radio nhỏ có cắm ống nghe. Bật lên băng tần FM thì tìm ra lời phiên dịch ra từng thứ tiếng, kể cả Pháp, Ý hay Đại Hàn. Tiếng Anh là 92.5! Người viết đếm không được số ngôn ngữ được phiên dịch! Những người Việt đến từ Hoa Kỳ thì có hệ thống riêng, do một nhà sư Tây Tạng rất trẻ lập riêng cho mình!

Khi bắt đầu bài giảng, vị Phật Sống của Tây Tạng thường hỏi: "Mọi người đã có trà chưa""

Lý do là mấy chục vị sư mỗi người một bình trà hơn một galông đã xen vào đám đông rót trà mời mọi người, theo sau là những khay bánh mì Tây Tạng. Hôm đầu tiên, các Phật tử được mời ăn xôi. Xôi hấp với bơ trộn cùng nho khô. Ngon vô tả! Trà cũng vậy, có pha chút sữa có đường nhưng không quá ngọt. Trời lạnh, quấn mình trong chăn ấm để uống trà thì chưa nghe pháp đã thấy mình thành tiên.

Nghĩa là ban tổ chức và người Tây Tạng phải làm chúng ta khâm phục về cách tổ chức và sự chu đáo của họ. Người nào cũng hiền hoà, ân cần và kiên nhẫn khi mỗi ngày mấy ngàn người như con nước đổ về tu viện hoặc rút xuống ăn trưa để lại trở về nghe đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp.

Trong một buổi chiều, khi nói về lòng từ bi, Ngài đã bật khóc ở trên. Bên dưới, quỳ chung quanh, là những vị cao tăng, những đạo sư trọng tuổi, ngồi tĩnh lặng như những triết gia. Kinh nghiệm ấy là một điều khó quên.

Trong mấy tuần liền, đường phố Dharamsala - toàn ngõ hẹp đường dốc, bề ngang không quá chục thước, bên dưới là sườn núi hay vực - chật ních những người và hàng quán tấp nập khách thập phương. Nếu chịu khó leo cao một chút thì mình có thể lên tới  nhà hàng Chonor House do Richard Gere lập ra cho thiên hạ. Thức ăn ngon, dịch vụ chu đáo và còn có một khu riêng để truy cập Internet.

Nhờ vậy mới kịp có bài này in trên Việt Báo! Thời khắc Dharamsala đi trước California 14 tiếng rưỡi. Cái rưỡi ấy là nét đặc trưng Ấn Độ! Và dù dọa nạt thế giới về IT, hệ thống Internet tại đây, dù là Dehli hay Dharamsala vẫn còn quá chậm. Hình quá lớn gửi về là bị đá ra ngoài.

Những chuyện ấy, nghe thuyết pháp xong thì loài người trần tục sẽ phải tìm cách giả quyết cho độc giả!

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.