Hôm nay,  

Lối Vào Khủng Hoảng

13/10/200800:00:00(Xem: 9918)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 

Nguyễn Xuân Nghĩa

 

...một phần bị khủng hoảng tài chánh là do khủng hoảng chính trị...

 

Mười ngày đầu tiên của tháng 10, trong đó có bảy ngày kinh doanh, là khoảng thời gian đen tối nhất cho các thị trường chứng khoán Hoa Kỳ và toàn cầu. Sự hốt hoảng đã trở thành quy luật của một vòng xoáy đi xuống. Theo ánh mặt trời, các thị trường mở cửa từ Á châu qua Âu châu về tới Mỹ châu, mở tới đâu thì sụp tới đó, ngày này qua ngày khác. Viễn ảnh của một tổng khủng hoảng đã trở về ám ảnh mọi người, và thực tế của sự suy sụp kinh tế đã gõ cửa từng nhà...

 

Khi thế giới ngưng tiếng khóc - và lời chửi thề - về những suy sụp kinh tế đang xảy ra sau vụ khủng hoảng tài chánh xuất phát từ Hoa Kỳ, người ta có thể nhìn ra một yếu tố góp phần đáng kể cho tai họa. Đó là cuộc tranh cử tổng thống Mỹ, một cuộc tranh cử tốn kém và lâu dài nhất lịch sử xứ này!

 

Bài này sẽ riêng chú ý vào khía cạnh ấy.

 

CHÍNH TRƯỜNG HẠI THỊ TRƯỜNG

 

Năm 2000, Thống đốc Texas George W. Bush bên đảng Cộng Hoà ra tranh cử tổng thống cùng Phó tổng thống Al Gore bên Dân Chủ. Vào đầu năm, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu tuột khỏi đỉnh cao kỷ lục sau năm năm tăng trưởng cực kỳ ngoạn mục. Tuột nặng nhất là chỉ số Nasdaq của các công ty "cao kỹ" hi-tech. Chúng ta sẽ còn trở lại chỉ số Nasdaq này.

 

Nói cho dễ hiểu, năm đó, trái bóng đầu tư cổ phiếu bắt đầu bể và - chúng ta quên rồi - trong có mấy tháng đã mất tám ngàn tỷ đô la, so với tổng sản lượng GDP của Mỹ vào khoảng thời gian đó là mất gần 80%! Nếu so với thời nay thì coi như bị mất 11.200 tỷ đô la trong vài tháng, là điều có thể xảy ra nếu các chính khách tiếp tục la làng!

 

Trong cuộc tranh cử, ông Bush - và cả ông Dick Cheney sau khi đứng chung liên danh từ tháng Bảy -  đã nhiều lần cảnh báo rằng kinh tế Hoa Kỳ có thể bị suy trầm (recession) vì nạn sụt giá cổ phiếu đó. Suy trầm là khi kinh tế tăng trưởng chậm hơn trong hai quý liên tiếp (trong sáu tháng liền), nặng hơn thì mới là suy thoái (depression) khi tăng trưởng là số âm. Sâu và rộng hơn thì mới có khủng hoảng (crisis hay great depression).

 

Năm đó, bên đảng Dân Chủ phản công rằng Bush "dèm pha kinh tế" (talk down the economy) vì nhu cầu tranh cử, chứ tình hình vẫn tốt đẹp khả quan.

 

Nạn suy trầm lần trước, từ tháng Bảy năm 1990 tới tháng Ba năm 1991, khiến ông Bush cha đã bị thất cử cuối năm 1992 (ngoài hiệu hứng chia phiếu của Ross Perot). Ông tin rằng mình bị thất cử oan uổng vì kinh tế đã ra khỏi suy trầm 14 tháng trước ngày dân chúng bỏ phiếu mà dân không biết (hãy nhớ đến khẩu hiệu của James Carville cho ông Bill Clinton: "khổ quá, vấn đề là kinh tế mà!" It's the economy, stupid!)

 

Vấn đề ở đây là quán tính của nhận thức, người ta chỉ biết thực hư về sau, và trong hiện tại thì chỉ dự đoán mà thôi. 

 

Tính từ đợt suy trầm ấy trở đi, từ đầu năm 1991 đến năm tranh cử 2000, thì thì kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng đều trong gần 10 năm. Hãy trở lại chuyện Nasdaq và 10 năm ngoạn mục nói trên.

 

Năm 1991, Chiến tranh lạnh kết thúc và cuộc cách mạng kỹ nghệ thông tin điện tử bùng nổ đã thổi lên ảo giác của nền "kinh tế tri thức", của nền "kinh tế mới", khiến kinh tế đã tách khỏi sức hút của trái đất và thoát khỏi sự thăng trầm cố hữu của chu kỳ kinh doanh. Sau đó, "cổ tức hoà bình" nhờ Liên Xô sụp đổ khiến Hoa Kỳ cắt giảm quân phí rất mạnh nên ngân sách được bội thu (dư thừa ngân sách). Đấy là thời hoàng kim của Clinton, kéo dài nhờ ông điều chỉnh lại chánh sách (theo hướng trung dung và gần với quan điểm Cộng Hoà hơn) sau khi đảng Dân Chủ mất đa số tại Quốc Hội năm 1994 vì đường lối kinh tế bao cấp của ba năm đầu.

 

Nhưng, kinh tế thật ra chưa thoát khỏi vật lý hay dịch lý, cho nên, có lên là cũng có xuống!

 

Theo chu kỳ kinh doanh thì sau sáu bảy năm tăng trưởng, kinh tế sẽ có lúc điều chỉnh và sản xuất đình trệ, trung bình từ nhiều thập niên là mất khoảng một năm. Lần ấy, từ 1991 đến năm tranh cử 2000 thì cuộc hẹn với suy trầm có thể xảy ra, cho nên liên danh Bush-Cheney không nói quá. Huống hồ lại còn có vụ bể bóng cổ phiếu.

 

Sau đó, qua năm 2001 là vụ khủng bố 9-11 vào tháng Chín, chiến tranh tại Afghanistan vào tháng 10, rồi sự sụp đổ hàng loạt của các công ty bê bối, bất lương vào tháng 12 (vụ Enron, Adelphia, Tyco, WorldCom, Arthur Anderson....)

 

Quả nhiên là kinh tế Mỹ bị suy trầm mất một năm, từ tháng 11 năm 2001 đến tháng 11 năm 2002 (dữ kiện về thời điểm suy trầm trong bài này là theo thống kê và định nghĩa chính thức và có thẩm quyền của Văn phòng Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia NBER.)

 

Trở lại vụ bể bóng cổ phiếu năm 2000 khiến thị trường chứng khoán mất tám ngàn tỷ. Nếu ta vạch lại đường tuyến của chỉ số Nasdaq trong khoảng thời gian từ năm 1992 tới 2002  mà so với đường tuyến của chỉ số DJIA vào thời kỳ tổng khủng hoảng - từ năm 1921 tới cuối năm 1932, ta thấy hai đường tuyến đồng dạng, mà Nasdaq bốc còn cao hơn. Trong năm năm, chỉ số Nasdaq đã tăng gấp hai lần rưỡi mức gia tăng của chỉ số Dow Jones trước khi bị sụp vào tháng 10 năm 1929. Sau cùng, trái bóng cổ phiếu Nasdaq đã bể và dot.com thành dot.coma! Nếu có muốn so sánh tính chất tương đồng thì vụ sụt giá cổ phiếu cao kỹ năm 2000 mới đáng dẫn tới hậu quả như vụ Tổng khủng hoảng năm 1929. Vậy mà không!

 

Vụ Tổng khủng hoảng ấy xảy ra sau giai đoạn hồ hởi của nước Mỹ từ khi Thế chiến I kết thúc, nước Mỹ đã thống nhất hệ thống chuyển vận trong một hải đảo bát ngát và bắt đầu vươn ra ngoài, trong một thế giới vô cương! Vậy mà, trong ba năm của vụ khủng hoảng từ 1930 đến 1932, Mỹ đã mất phân nửa tổng sản lượng nội địa (tăng trưởng giảm 50% GDP), với nạn thất nghiệp 25% và số nhà bị tịch biên là 50%. Hậu quả của nó kéo dài và lan rộng qua xứ khác vì chánh sách ứng phó bất cập của Chính quyền Franklin D. Roosevelt (tăng thuế, can thiệp vào kinh tế bằng chế độ bao cấp và bảo hộ mậu dịch).

 

Nó chỉ chính thức kết thúc với (nhờ) Thế chiến II: kỹ nghệ tăng cường sản xuất chiến cụ rồi thanh niên tòng quân ra trận.

 

Nhưng, sau vụ sụt giá cổ phiếu Nasdaq, Hoa Kỳ năm 2000-2002 - nghĩa là trong thời chiến tranh - lại không bị khủng hoảng nguy ngập như trong giai đoạn 1929-1931.

 

Sự thật của thời đó và ngày nay:  kinh tế Mỹ đã trở nên đa diện, tinh vi hơn và có cơ chế ứng phó linh động hơn, với những kiến thức cập nhật hơn về kinh tế học. Một chuyên gia kinh tế có uy tín và thẩm quyền vì đã nghiên cứu sâu rộng về vụ khủng hoảng ấy chính là Giáo sư Ben Bernanke, ông đang là Thống đốc Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ.

 

Vậy mà "tổng khủng hoảng" vẫn có trên đầu môi của các chính khách và được rao truyền liên tục trên mặt báo hay truyền hình trong suốt một chu kỳ tranh cử kéo dài kỷ lục là hơn 18 tháng! Từ đó mới gieo tật "tự kỷ ám thị" cho dân chúng. Sau khi hồ hởi sảng, dân Mỹ bắt đầu hốt hoảng bậy (nếu có so sánh thì vụ khủng hoảng hiện nay gần với vụ hồ hởi sảng và hốt hoảng bậy năm 1873, nhưng bài phân tách này sẽ quá dài trong khi giấy mực đang đắt!)

 

 Chúng ta cần nhớ lại chuyện đó, và nhất là nhớ lại rằng trong cuộc tranh cử năm 2000, liên danh Bush-Cheney không hề nói đến chữ "khủng hoảng", hay "Tổng khủng hoảng 1929-1933" để hù họa cử tri. Người nói đến Tổng khủng hoảng là Nghị sĩ John Kerry, trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2004: "lợi tức dân chúng sa sút như trong thời Tổng khủng hoảng"!

 

Và từ năm 2007, sau sáu năm tăng trưởng đều dù không cao - khi kinh tế Mỹ vẫn è lưng lãnh gánh nặng chiến tranh - thì hầu hết các chính khách bên đảng Dân Chủ đều nói đến suy thoái (depression) hay khủng hoảng (crisis), hoặc tổng khủng hoảng (great depression). Nếu tò mò, hãy gõ những chữ đó trên phần tin tức của Google thì sẽ thấy.

 

Trong đà hứng khởi của tranh cử, ứng cử viên phó Tổng thống là Nghị sĩ Joe Biden còn huênh hoang nói sảng để đả kích ông Bush, rằng khi Tổng khủng hoảng xảy ra năm 1929, Tổng thống Roosevelt đã lập tức lên truyền hình trấn an dư luận. Thật ra, Rooselevelt chỉ nhậm chức vào tháng Ba năm 1933 và thời đó, dân Mỹ chưa có truyền hình trong nhà.

 

Hiện nay, dù cả thế giới và dân Mỹ đều đang hốt hoảng, chúng ta chưa thấy mấy con số hãi hùng của vụ Tổng khủng hoảng thời đó: sản lượng Mỹ có tăng chậm hơn nhưng vẫn tăng, số nhà bị kéo vẫn chỉ ở khoảng 5-6%, thất nghiệp hiện là 6,1% và có lên tới 7,5% vào năm tới thì vẫn chưa thể so sánh với thời kỳ u ám ngày xưa. 

 

Nói lại cho rõ: nền kinh tế Hoa Kỳ ở bên dưới vẫn vận hành bình hoà, không tăng trưởng ngoạn mục thì vẫn còn tăng trưởng, hơn 2% vào quý hai. Mà sau sáu năm có tăng trưởng (từ tháng 11 năm 2002 đến tháng 10 của năm nay), nếu có suy trầm thì cũng là chuyện bình thường, có thể hiểu và thấy trước được.

 

Nhưng, nó bị nguy cơ suy thoái, tức là nặng hơn suy trầm, vì khủng hoảng tài chánh ở trên đổ xuống. Và một phần bị khủng hoảng tài chánh là do khủng hoảng chính trị. Cuộc tranh cử 2007-2008 góp phần đáng kể cho cuộc khủng hoảng tài chánh ấy vì đánh vào niềm tin của thị trường, của dân chúng.

 

Chính trường đã hại thị trường như vậy!

 

NGUYÊN ỦY SÂU XA

 

Chúng ta lại trở lại nguyên nhân sâu xa trong quá khứ, để đặt vấn đề vào đúng kích thước của nó.

 

Năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter và Quốc hội Dân Chủ thời đó ban hành đạo luật có mục tiêu xã hội mà không tính ra hậu quả kinh tế. Đó là Community Reinvestment Act với chỉ tiêu đề ra là các ngân hàng phải thỏa mãn nhu cầu tín dụng của cộng đồng, của cả những người không có khả năng đi vay. Mục đích cao quý phải đạo này là để giúp dân chúng vay tiền mua nhà.

 

Chủ trương "hữu sản hoá" đó được mọi người cổ võ, huống hồ Hoa Kỳ còn có hai công ty "bán công" Fannie Mae và Freddie Mac có thể tái tài trợ - bơm tiền vào thị trường gia cư bằng cách mua lại các khoản nợ địa ốc - với sự bảo đảm mặc nhiên của nhà nước. Các chủ đầu tư tư nhân của hai công ty này thoải mái kiếm lời nhờ làm nghiệp vụ ích quốc lợi dân.

 

Qua năm 1995, Tổng thống Bill Clinton còn đặt ra định mức cho các ngân hàng là phải cấp phát tín dụng cho các cộng đồng nghèo. Nghĩa là còn tiến xa hơn Carter trên con đường xã hội. Fannie Mae và Freddie Mac thành công lớn, các chủ đầu tư hay doanh gia quản trị đều thành triệu phú nhờ giúp dân nghèo dễ có nhà, từ đó kiểm soát phân nửa dư nợ tín dụng gia cư của toàn quốc. Và đầu tư bằng cách mua giấy nợ của hai công ty này là cách an toàn nhất cho nhiều người, nhiều nước. Doanh nghiệp đầu tư quốc doanh CICC của Trung Quốc đã tung vào đó 400 tỷ Mỹ kim!

 

Một nguyên nhân khác, là sự hồ hởi sảng nhờ tiền rẻ. Từ 2003 tới 2005, khi Hoa Kỳ còn đang ở trong thời chiến, lãi suất liên ngân hàng đã được hạ rầt thấp, từ 6,50 xuống còn có 1% và duy trì cả năm ở mức cực thấp ấy, gần số âm nếu so với lạm phát.

 

Tiền rẻ đã thổi lên trái bóng gia cư và trong trái bóng này, loại tín dụng "thứ cấp" (sub-prime) là loại dễ bể nhất. Nhưng không ai sợ vì bề nào cũng có lưới đỡ - hay sức đảm bảo của Fannie Mae và Freddie Mac và của chính quyền vì việc cho vay đó là "phải đạo". Nhờ tiền rẻ cùng nhiều phát minh tinh xảo để "chứng phiếu hoá" các giấy nợ, hệ thống ngân hàng đầu tư cùng các công ty tài trợ, quỹ đầu tư đối xung (hedge funds) thì lạc quan đánh giá sai hiểm tai (rủi ro) tín dụng và bán cho nhau giấy nợ để lấy tiền đầu tư tiếp. Thậm chí còn bỏ vốn riêng - và đi vay thêm gấp bội so với số vốn của mình- để làm ăn theo lối rủi ro ấy.

 

Họ truyền cho nhau những gói nợ bên trong có loại nợ bất trắc nhất là tín dụng sub-prime.

 

Y như trong thời kỳ trước Tổng khủng hoảng và thời bong bóng Nasdaq, người ta đã hồ hởi sảng và trở thành bất cẩn. Nhiều doanh nghiệp tài chánh còn có hoạt động bất lương, kể cả Fannie Mae và Freddie Mac, vốn có ưu thế "bán công" và không bị kiểm soát chặt chẽ, mà chưa thấy ai bị truy tố. Tới khi kinh tế tăng trưởng mạnh và lạm phát bắt đầu tăng thì Ngân hàng Trung ương nâng lãi suất, từ 1% vào tháng Sáu năm 2006 lên 5,75%, thị trường gia cư bị đình đọng, giá nhà hết tăng. Hiện tượng tiền rẻ bắt đầu chấm dứt và trái bóng gia cư bị xì, giá nhà bắt đầu sụt. (Vậy mà, ngay cả khi thị trường gia cư đã đình đọng, Fannie Mae và Freddie Mac tiếp tục bơm thêm tiền vào thị trường tín dụng thứ cấp sub-prime vì một lý do dễ hiểu: thương vụ càng cao, giới quản trị hai doanh nghiệp này càng lãnh lương bổng hậu.)

 

Nhạc đã lắng và mây đã chìm khi thành phần thiếu khả năng mua nhà bắt đầu bị điêu đứng, trễ hạn trả nợ loại sub-prime và nhà bị tịch biên. Tài sản đảm bảo cho các gói nợ được lưu truyền bỗng mất giá và gói nợ trở thành cục than hồng. Điều kỳ lạ là không ai biết bên trong các gói nợ này, mức độ ung thối cao hay thấp, nhiều hay ít. Khủng hoảng tín dụng xảy ra từ đó, từ tháng Bảy năm ngoái và tích tụ dần dần thành khủng hoảng tài chánh khi các ngân hàng hết dám cho vay, nạn cạn kiệt thanh khoản bóp nghẹt sinh hoạt kinh tế.

 

Trong khi ấy, các chính trị gia đang bận tranh cử nên sẵn sàng tri hô rằng khủng hoảng đã tới, như họ báo động trước. Và khi các ngân hàng đầu tư sụp đổ, các chính khách đổ lỗi cho nhau.

 

Nặng nhất là tội "giản chánh" (deregulation) của Chính quyền Bush và đảng Cộng Hoà vì đòi giản lược hành chánh luật lệ cho thị trường được sinh hoạt tự do. Người ta quên mất là đạo luật Sarbannes-Oxley nhằm tăng cường kiểm soát kế toán và quản trị được ban hành sau vụ Enron năm 20001, mới gây ách tắc cho nhiều doanh nghiệp nhỏ khiến họ không muốn yết giá trên thị trường chứng khoán.

 

Như cũng quên rằng quyết định cải cách hệ thống ngân hàng theo chiều hướng giản chánh lại do Tổng thống Bill Clinton ban hành năm 1999, với sự đồng lòng của Tổng trưởng Ngân khố Robert Rubin và Lawrence Summers (cả hai ông này đang là cố vấn kinh tế cho Nghị sĩ Barack Obama).

 

Trong khi ấy, nhiều lời báo động hay đề nghị tăng cường giám sát Fannie Mae và Freddie Mac do Tổng thống Bush hay nhiều nhân vật Cộng Hoà (kể cả McCain) lại không được phe Dân Chủ chấp thuận. Nhiều dân biểu nghị sĩ Dân Chủ (kể cả Obama) là khách xộp của hai công ty này và được yểm trợ tiền bạc hoặc quyền lợi rất hậu hĩnh để khỏi bị kiểm soát chặt chẽ. Vì tư lợi, người ta dồn bao nhiêu rủi ro vào hai doanh nghiệp "bán công" đang làm chủ phân nửa khối dư nợ tín dụng gia cư bên trong có bao nhiêu nợ thối thì không ai biết.

 

Vấn đề vì vậy không đơn giản là 1) hãy để kinh tế thị trường tự điều chỉnh chứ nhà nước đừng quá can thiệp và kiểm soát thị trường (theo quan điểm tự do bên Cộng Hoà) hay 2) nhà nước phải kiểm soát để điều tiết hay ngăn chặn những bất toàn của thị trường (quan điểm cấp tiến bên Dân Chủ). Vấn đề là dân Mỹ tiêu thụ quá khả năng vì hồ hởi sảng, là doanh gia Mỹ tham lam và bất cẩn, là Hoa Kỳ có luật lệ bất cập mà lại không thi hành nghiêm minh vì sự ung thối đạo đức của các đại diện dân cử.

 

Cho nên, trong toàn bộ cuộc khủng hoảng tài chánh, ngoài các doanh gia bất cẩn và bất lương sẽ phải bị điều tra và truy tố nếu có tội, thì cả Hành pháp và Lập pháp thuộc cả hai đảng đều có trách nhiệm. Nhưng bây giờ họ đổ vấy cho nhau.

 

Khi khủng hoảng tài chánh bùng nổ, khi giải pháp cấp cứu cần được kịp thời ban hành để nạn cạn kiệt tín dụng trong hệ thống ngân hàng không bóp nghẹt sinh hoạt kinh tế bên dưới, thì lại là lúc bên Lập pháp lo tranh cử: toàn bộ Hạ viện và một phần ba Thượng viện cần xin phiếu cử tri. Nhu cầu tranh cử đã lấn lướt nhu cầu cấp cứu tài chánh nên Hoa Kỳ mất hai tuần tranh cãi, từ 15 đến 29 tháng Chín thì kế hoạch cấp cứu mới được ban hành. Nó xuất hiện quá trễ, nền kinh tế bên dưới bắt đầu suy trầm. Và thị trường từ hết niềm tin đã biến thành hốt hoảng.

 

Nghị sĩ Barack Obama đã vượt lên trong hoàn cảnh đó và có hy vọng thắng cử mà đảng Dân Chủ không thể mơ ước trước ngày 15 tháng Chín.

 

TỔNG KẾT

 

Dân tộc nào cũng có lãnh đạo xứng đáng với mình, vụ khủng hoảng này là một minh chứng ê chề. Cuộc bầu cử tới đây cũng vậy!

 

Nếu nhớ lại từ nguồn cội xa xưa, chúng ta có thể tin rằng Hoa Kỳ không bị tổng khủng hoảng như lần trước - mức độ nguy ngập có khác nhau. Nhưng có thể bị suy trầm nặng hơn mọi dự đoán, nếu kế hoạch cấp cứu tài chánh không kịp khôi phục niềm tin của dân chúng.

 

Điều đáng ngại nhất là từ suy trầm có khi tuột thành suy thoái lâu hơn nếu chủ trương kinh tế của đảng Dân Chủ và Obama được áp dụng, y như dưới thời Franklin Roosevelt: tăng chi cho các dự án đầu tư công cộng (để tạo ra công ăn việc làm theo giải pháp bao cấp cố hữu), tăng thuế để giảm bội chi ngân sách, và bảo hộ mậu dịch để "bảo vệ công ăn việc làm cho dân Mỹ" (và trả nợ yểm trợ cho các nghiệp đoàn đã giúp Obama đắc cử), v.v...

 

Họ đem lý luận đấu tranh giai cấp vào quản lý kinh tế và tạo ra thế đối nghịch giàu/nghèo - giàu là thiểu số... có tội, nghèo là đa số (phiếu) mà cần được bảo vệ - và vô hình chung họ trừng phạt những người chưa là tỷ phú tài phiệt nhưng là chủ đầu tư hay chủ các tiểu doanh nghiệp, đầu máy tạo ra công ăn việc làm và lương lậu cho người khác.

 

Phải chăng vì vậy mà Obama càng lên điểm, thị trường chứng khoán càng tuột giá"

 

Câu hỏi này không phải vô lý vì những kẻ đầu tư bất lương thì đã bị thị trường trừng phạt, và phá sản. Nhưng giới đầu tư bình thường và cẩn trọng lại bị mắc oan! Khi cổ phiếu mất giá, ai ai cũng thấy mình nghèo đi và hiệu ứng phồn thịnh (wealth effect) tác động ngược, làm mọi người càng thu vén chi tiêu và kinh tế càng sa sút, là chuyện sẽ xảy ra năm tới.

 

Nhìn ra bên ngoài, các xứ khác tất nhiên là đả kích "tư bản chủ nghĩa kiểu Mỹ" và đổ lỗi cho Hoa Kỳ về mọi tai họa họ đã gặp. Họ có lý một phần nhưng chỉ một phần thôi. Hoa Kỳ quả là không xứng đáng lãnh đạo thế giới khi để khủng hoảng lãnh đạo bùng nổ ngay giữa cơn khủng hoảng tài chánh và lây lan xuống kinh tế.

 

Còn khả năng ứng phó của từng nước trước cơn hoảng loạn toàn cầu này sẽ ra sao" Chúng ta còn có dịp nghiêng mình ngó xuống đáy vực sau khi xem tiếp bi hài kịch chống đỡ của nhóm G-7, Ngân hàng Thế giới và IMF...

 

Bi hài kịch vì một vấn đề rất cụ thể: các nước sẽ cấp cứu từng ngân hàng và từng thân chủ của mình hay sẽ cứu chung tất cả" Thí dụ, bảo đảm ký thác hay trái phiếu của một ngân hàng Mỹ có bao gồm cả khách hàng có quốc tịch Âu châu không" Nếu mà không thì còn gì là kinh tế thị trường toàn cầu" Nếu bao đảm chung cho tất cả, ngân sách quốc gia có đủ hay chăng"

 

Khi thấy dân Mỹ bất bình về kế hoạch cấp cứu bằng 700 tỷ, và dân Anh biểu tình tại London để chống một kế hoạch tương tự của Thủ tướng Gordon Brown, và khi thấy Anh và Iceland tranh chấp nặng vì chuyện phân biệt quốc tịch của trương chủ trong các ngân hàng Iceland bị phá sản, ta thấy lãnh đạo các nước đều lâm thế kẹt: làm sao cấp cứu kinh tế thị trường mà không bị cử tri trừng phạt vì phản ứng "quốc gia" của họ"

 

Làm sao cân nhắc và thuyết phục cử tri cùng thị trường về yếu tố quốc gia và quốc tế" Kiểm soát thị trường toàn cầu hóa tới chừng nào là đủ, chừng nào là quá" Những vấn đề ấy sẽ còn ám ảnh chúng ta, và có thể dẫn tới hậu quả nguy hại đã thấy hồi Tổng khủng hoảng: giải pháp cấp cứu nhất thời và quyết định bảo vệ quyền lợi quốc gia qua chánh sách bảo hộ mậu dịch lại gieo mầm cho nhiều vấn đề lâu dài về sau, mà trong cơn hốt hoảng trước mắt, không mấy ai chịu để ý.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.