Hôm nay,  

Hiệp Định Genève (20-7-1954) (phần 2)

20/07/200800:00:00(Xem: 14968)

IV.-   BẢN TUYÊN BỐ CUỐI CÙNG KHÔNG CHỮ KÝ

Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn họp tiếp và “thông qua” bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954.  Đây chỉ là lời tuyên bố (Declaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. 

Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”.(9) Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không đồng ý, và đưa ra tuyên bố riêng của mình. 

Bản tuyên bố nầy gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7.  Điều nầy ghi rằng:

"Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín.  Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự.  Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Bản dịch của Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường) (10a)    

Điều 7 của bản Tuyên bố nầy được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị, theo đó một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào để đòi hỏi Nam Việt tổ chức tổng tuyển cử trên toàn quốc. 

Trong bản tuyên bố của phái đoàn QGVN, bác sĩ Trần Văn Đỗ, trưởng phái đoàn, giải thích vì sao phái đoàn QGVN không ký kết hiệp định Genève.  Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết hiệp định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, bản tuyên bố viết:

“Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt.  Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng Chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở.”(10b).

Vì phái đoàn QGVN không ký vào bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (hiệp định Genève) và nhất là không tham dự vào bản “Tuyên bố cuối cùng”, nên chính phủ QGVN tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của bản tuyên bố nầy. 

Về phiá Hoa Kỳ, trưởng phái đoàn là Bedell Smith cũng đưa ra bản tuyên ngôn ngày 21-7-1954 theo đó, tuy không ký vào hiệp định, nhưng Hoa Kỳ cam đoan không đe doạ hay dùng võ lực để sửa đổi hiệp định; Hoa Kỳ sẽ nghiêm xét bất cứ một hành vi tái gây hấn vi phạm thoả hiệp trên, đe doạ hòa bình và an ninh thế giới; Hoa Kỳ tôn trọng việc thực hiện thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do đặt dưới sự giám sát cuả Liên Hiệp Quốc.  Ông Bedell Smith kết luận:

“Chúng tôi chia sẻ niềm hy vọng rằng các thỏa hiệp nầy sẽ cho phép Cao Miên, Lào và Việt Nam nắm giữ điạ vị của họ, trong độc lập hoàn toàn và chủ quyền đầy đủ, giữa cộng đồng yêu chuộng hoà bình của các quốc gia, và sẽ khiến cho các dân tộc ở các vùng đó có thể tự định đoạt lấy tương lai của mình.”(10c)

V.-   VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE

Hội nghị Genève kết thúc với ba văn kiện chính thức (ngày 20-7-1954) và một bản tuyên bố chung (ngày 21-7-1954) là: 1) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam.  2) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào.  3) Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cambodge (Cambodia). 4) Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. 

Ngoài bốn văn kiện trên, còn có hai văn kiện do hai phái đoàn đưa ra là: 1) Tuyên ngôn của phái đoàn QGVN. 2) Tuyên ngôn của phái đoàn Hoa Kỳ.

Cần chú ý hai điểm:  Thứ nhất, Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam tức Hiệp định đình chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân... mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. 

Thứ hai, không có phái đoàn nào ký tên vào bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954.  Một điều rất lạ lùng là sự việc bất thường nầy, một văn kiện quốc tế mà không có chữ ký, lại ít được chú ý và ít được sách báo viết đến.(11)

Điều 7 của bản tuyên bố nầy mở đầu bằng câu "Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam...” (La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam), nghĩa là về vấn đề Việt Nam, Hội nghị nghĩ rằng, đưa ra ý kiến rằng, hay dự kiến rằng … một cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956…, còn làm theo hay không làm theo, nghĩa là thi hành hay không thi hành, là tùy các bên liên hệ.  Hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, vì rõ ràng nhất là Hội nghị không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố nầy, để cam kết hay để giữ lời cam kết.  Những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.

Hơn nữa, đây là một bản tuyên bố chứ không phải là một bản hiệp ước.  Môt bản tuyên bố lại không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nước nào, kể các các chính phủ liên hệ đến cuộc chiến ở Đông Dương, có được xem là một văn kiện có giá trị pháp lý để thi hành hay không"

Vì những lý do căn bản nầy, bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”, trong đó đặc biệt điều 7 của bản tuyên bố nầy về dự kiến một cuộc tổng tuyển cử trong năm 1956, không có tính cách pháp lý để bắt buộc bất cứ nước nào thi hành.  Nói cho cùng, có thể nói rằng bản tuyên bố nầy khá mơ hồ và không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương sau khi hai bên đình chiến.

Tinh thần của bản tuyên bố Genève khiến người ta liên tưởng đến “Tối hậu thư Potsdam” mà các nước Anh, Hoa Kỳ và Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) gởi cho Nhật Bản ngày 26-7-1945.  Tối hậu thư Potsdam buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quy định rằng ở Đông Dương quân đội Trung Hoa sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16, và quân đội Anh sẽ giải giới quân đội Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16 (ngang qua Tam Kỳ).  Tuy nhiên tối hậu thư nầy không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho Đông Dương.

Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính trị tại Đông Dương sau năm 1945 một khi những quyết định trong tối hậu thư Potsdam được thi hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, cũng sẽ sụp đổ, thì ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông Dương"  Đây là thâm ý của Anh và Hoa Kỳ, cố tình bỏ ngỏ khoảng trống chính trị để tạo điều kiện cho Pháp trở lại Đông Dương. 

Nay bản Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương cũng đi vào vết xe cũ, không đưa ra một giải pháp chính trị cụ thể cho tương lai Đông Dương, ngoài một bản tuyên bố không có người ký.  Từ đó, các bên liên hệ đến bản tuyên bố có thể tùy tiện giải thích bản tuyên bố một cách khác nhau, tùy theo chủ trương chính sách của mỗi bên. 

Ngay trong Hội nghị Liễu Châu từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, cả CHNDTH lẫn VNDCCH đã thỏa thuận tạm hòa, để tiếp tục chiến tranh.  Cũng trong hội nghị nầy, những nhà lãnh đạo VNDCCH đã trình bày kế hoạch hậu chiến là gài người cùng chôn giấu vũ khí tại miền Nam để chuẩn bị nổi dậy.  Như thế có nghĩa là kế hoạch tấn công miền Nam đã được dự tính trước. 

Để kiếm cớ gây chiến, Bắc Việt (VNDCCH) dựa vào điều 7 nầy, tố cáo chính phủ Nam Việt (VNCH) không tôn trọng hiệp định Genève.  Trong khi đó, hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến và đã được các phe liên hệ thi hành xong ngay từ 1954, với sự giám sát của Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến.  Còn bản “Tuyên bố…” không có chữ ký thì chẳng có giá trị pháp lý để thi hành.  Tuy nhiên, kẻ gây hấn thì luôn luôn có lý do để gây hấn.

Cho đến nay, chưa có một giải thích cụ thể nào cho biết tại sao bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”, lại không không có chữ ký của phái đoàn các nước"  Phải chăng sau nhiều tháng hội họp, các phái đoàn quá mệt mỏi với những tranh cãi triền miên, nên chỉ hỏi ý kiến bằng miệng cho chóng thông qua"  Hay phải chăng có một âm mưu muốn tính chuyện về sau, nên chỉ hỏi bằng miệng để bỏ ngỏ vấn đề, nhằm dọn đường cho những tính toán chính trị kế tiếp sau hiệp định Genève"  Và ai là người đã chủ xướng biện pháp chính trị lập lững nầy"  Nước nào chủ xướng thì chưa biết, nhưng chính phủ QGVN rất yếu thế, ngay từ đầu lại bác bỏ việc chia cắt đất nước, phản đối hiệp định Genève, nên chắc chắn QGVN không phải là nước chủ xướng.

Ngày 22-7-1954, thủ tướng chính phủ QGVN là Ngô Đình Diệm ra tuyên cáo phản đối việc chia hai nước Việt Nam.  Tuy nhiên cuối cùng chính phủ QGVN vẫn phải chấp nhận thi hành hiệp định Genève ngày 20-7-1954, chia hai đất đất nước ở sông Bến Hải, vùng vĩ tuyến 17.  Như thế, từ năm 1954, tại Bắc và Nam Việt Nam, có hai chính phủ riêng biệt, theo hai chính thể riêng biệt, tức có hai nước Việt Nam riêng biệt. 

Thi hành hiệp định đình chiến Genève, việc ngưng bắn chính thức có hiệu lực ngày 27-7-1954 tại Bắc Việt, ngày 1-8-1954 tại Trung Việt, và ngày 11-8-1954 tại Nam Việt.  Vấn đề cấp thời của hai chính phủ là tập trung và di chuyển quân đội, công chức, cán bộ của mình và cả dân chúng, về khu vực cai trị của mình, vì “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” cho phép trong thời gian 300 ngày, dân chúng được tự do di cư từ khu bên nầy sang khu thuộc phía bên kia.

Ngày 9-10-1954 là hạn chót cho những người muốn di cư vào Nam di tản khỏi Hà Nội.  Hôm sau, ngày 10-10-1954, quân đội VM vào tiếp thu Hà Nội.  Chủ tịch Uỷ ban Quân quản Hà Nội của VM là Vương Thừa Vũ tức Nguyễn Văn Đồi, người đã chỉ huy cuộc tấn công Hà Nội ngày 19-12-1946 và trở thành tư lệnh sư đoàn đầu tiên của VM là sư đoàn 308.  Hải Phòng, điểm tập trung đồng bào miền Bắc muốn di cư bằng tàu thủy vào miền Nam, do VM tiếp thu ngày 13-5-1954.  Ba ngày sau, toán lính Pháp cuối cùng rút lui khỏi đảo Cát Bà (vịnh Hạ Long, vùng Hải Phòng) ngày 16-5-1955.

Số người từ miền Nam tập kết ra Bắc không được thống kê đầy đủ.  Theo sự  trình bày của Võ Nguyên Giáp tại Hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa) từ ngày 3-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Châu Ân Lai, trước khi chiến tranh kết thúc, VM dự tính bước đầu rút khoảng 60,000, trong đó 50,000 người là bộ đội và 10,000 người làm công tác chính trị, nhất là những người “đỏ” quá, không thể ở lại.  Ngoài ra, VM dự tính sẽ lưu lại miền Nam từ 5,000 đến 10,000 người để chờ thời cơ, và vũ khí nào cất giấu được thì cất giấu sau khi quân đội rút đi.(12)  Đó chỉ là báo cáo dự tính của Võ Nguyên Giáp, thực tế số vũ khí chôn giấu và số đảng viên cộng sản ở lại miền Nam đông hơn rất nhiều.

Số người từ miền Bắc di cư vào miền Nam lên đến khoảng gần 1,000,000 người.(13)   Trong số nầy, nhân viên chính quyền (tức công chức) và quân nhân chiếm một phần ít, còn đại đa số là dân chúng.  Đây là đợt tỵ nạn cộng sản lớn lao đầu tiên trong lịch sử hiện đại, cũng là đợt di dân nội địa lớn lao nhất trong lịch sử nước ta.  Người Việt Nam vốn rất ràng buộc với quê cha đất tổ, mà một triệu người đành phải bỏ xứ ra đi, chứng tỏ lòng dân như thế nào đối với chế độ của đảng Lao Động (tức là đảng CSVN). 

Số người ra đi đông đảo như trên rời đất Bắc có lợi cho đảng Lao Động vì những thành phần chống cộng, đối lập, bất đồng chính kiến, những nhân vật theo các đảng phái Quốc gia, đều rút về miền Nam, nên không còn, hay ít còn người ở lại đối kháng với chế độ mới ở ngoài Bắc. 

Chính phủ QGVN phải lo tái định cư, tìm kiếm công ăn việc làm, xây dựng đời sống mới cho gần một triệu người di cư là một công tác lớn lao.  Chưa kể nhiều cán bộ cộng sản được cài lại ở miền nam, sống lẫn lút trà trộn trong dân chúng,(14) chắc chắn đảng Lao Động không bỏ qua cơ hội cho đảng viên cốt cán len lõi vào đoàn người di cư vào miền Nam để làm tình báo, như trường hợp Vũ Ngọc Nhạ,(15) hay Vũ Bằng...(16)

KẾT LUẬN

Sau trận Điện Biên Phủ (7-5-1954), khi Pháp quyết định rời bỏ hẳn Việt Nam, các cường quốc trên thế giới, Quốc tế Cộng Sản cũng như Quốc tế Tư bản, lại một lần nữa can thiệp, và áp đặt một giải pháp chính trị theo quyền lợi của họ, buộc các phe phái ở Việt Nam phải thi hành. 

Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch tổng tuyển cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý nguyện của chính phủ QGVN.  Pháp quyết ký hiệp định Genève (20-7-1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì đến Việt Nam.  Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch tổng tuyển cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam"

Chính phủ QGVN non trẻ, bị động theo chính sách của Pháp, là chuyện đành phải chấp nhận.  VNDCCH (VM), dầu đã lợi dụng và sử dụng xương máu người Việt để chiến đấu, và tự cho rằng đã chiến thắng đế quốc Pháp, cũng không thể cưỡng chống lại những ý đồ của Liên Xô và CHNDTH. 

Nói cách khác, người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang, dù đó là ngoại bang tư bản hay cộng sản.  Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam.  Chẳng bao giờ có tình nghĩa xã hội chủ nghĩa hay tình nghĩa tư bản chủ nghĩa.  Chỉ có “quyền lợi chủ nghĩa” giữa các nước mà thôi.

Đất nước bị chia hai, dân tộc bị chia hai, nhưng Hiệp định Genève chỉ là một hiệp định “đình chiến”, tức mới chỉ ngừng tay đánh nhau, chứ chưa phải là hiệp ước hòa bình.  Sau chín năm chiến tranh triền miên, dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ hòa bình vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt.  Lòng dân muốn hòa bình, nhưng những kẻ chủ trương độc tài luôn luôn muốn tóm thâu quyền, luôn luôn muốn gây hấn để toàn trị.  Và như thế, vận nước chưa hết nổi trôi, người Việt sẽ vẫn còn tiếp tục thống khổ...

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, 14-7-2008)

CHÚ THÍCH

9. Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nam Á 2002, tr. 2642. Trong sách Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, sđd. tr. 54, đăng bài dịch của bản “Tuyên bố” nầy, nhưng phía dưới không có tên người ký.  Tài liệu Pentagon Papers cũng không có tên ai ký dưới bản tuyên bố.

10. Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, sđd. tr. 53 (10a), tr. 56 (10b), tr. 58 (10c).  Nguyên văn tiếng Pháp điều 7 như sau:  “La Conférence déclare qu’en ce qui concerne le Vietnam, le règlement des problèmes politiques, mis en oeuvre sur la base du respect des principes de l’indépendance, de l’unité et de l’intégrité territoriales, devra permettre au peuple vietnamien de jouir des libertés fondamentales, garanties par des institutions démocratiques formées à la suite d’élections générales libres au scrutin secret. Afin que le rétablissement de la paix ait fait des progrès suffisants et que soient réunies toutes les conditions nécessaires pour permettre la libre expression de la volonté nationale, les élections générales auront lieu en juillet 1956, sous le contrôle d’une commission internationale composée de représentants des Etats membres de la Commission internationale pour la surveillance et le contrôle visée à l’accord sur la cessation des hostilités. Des consultations auront lieu à ce sujet entre les autorités représentatives compétentes des deux zones à partir du 20 juillet 1955. (http://www.ena.lu/conference_geneve_20_21_juillet_1954-010703174.html). Có thể xem thêm bản tiếng d ịch Anh: Gravel (ed.), Pentagon Papers, Vol. 1, pp. 279-282.

11. Ngày nay, vào Google.com, tìm “Déclaration finale de Genève en 1954”, thì có ghi rõ câu nầy ngay từ tiểu mục của các bài viết: “Une déclaration finale en treize points, non signée par les participants.. “ [Môt bản tuyên bố cuối cùng gồm 13 điểm, không chữ ký của những người tham dự..]

12. Tiền Giang, bđd. số tháng 8-2007 (bài thứ 2), tr. 29.  Ông Nguyễn Văn Trấn, trong sách Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, có đề cập đến vấn đề người miền Nam tập kết ra Bắc, nhưng cũng không cho biết cụ thể số lượng người tập kết là bao nhiêu"

13. Theo Đoàn Thêm, đến ngày 30-10-1955 là ngày chính thức chấm dứt cuộc di cư, số lượng người di cư tỵ nạn là 887,890 người. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 195.)  Thực tế ở ngoài còn cao hơn nhiều.

14. Điển hình là Lê Duẩn, bí thư Xứ uỷ Nam bộ, ở lại miền Nam đến 1957 mới ra Bắc. (Về sau, người ta mới biết điều nầy.)  (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập I-C: 1955-1963, Houston, Nxb. Văn Hóa, 2000, tr. 17.)

15. Vũ Ngọc Nhạ: Khi di cư vào Nam năm 1954, Vũ Ngọc Nhạ làm giám thị tại một trường học do linh mục Hoàng Quỳnh phụ trách.  Nhờ linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu, Vũ Ngọc Nhạ dần dần được đưa vào làm việc ở phủ tổng thống dưới thời Đệ nhất Cộng Hòa.  Vũ Ngọc Nhạ bị nghi ngờ, bị bắt một thời gian, nhưng không có bằng chứng cụ thể nên được thả ra.  Qua thời Đệ nhị Cộng Hòa, Vũ Ngọc Nhạ tiếp tục hoạt động, và bị bắt trở lại vào ngày 28-7-1969 vì tội làm gián điệp trong cụm tình báo chiến lược A 22 của cộng sản.

16. Vũ Bằng (1914-1984), tên thật là Vũ Đăng Bằng, còn có những bút danh khác là Tiêu Liêu, Lê Tâm, Vũ Tường Khanh, Hoàng Thị Trâm, nguyên quán tỉnh Hải Dương, là một nhà báo khá nổi tiếng ở Hà Nội trước năm1954 và Sài Gòn sau 1954.  Đặc biệt, theo tiết lộ của báo chí Hà Nội (báo Nhân Dân ngày 9-3-2000, báo An Ninh Thế Giới số 172, ngày 13-4-2000), Vũ Bằng hoạt động cho Cục tình báo chiến lược quân sự của cộng sản từ năm 1952.  Năm 1954, Vũ Bằng di cư vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động với tư cách là cơ sở khai thác tin tức phục vụ tình báo cho đến 30-4-1975.  Tác phẩm để lại: Lọ văn (1936), Một mình trong đêm tối (1937), Truyện hai người (1940), Tội ác và hối hận (1940), Để cho chàng khỏi khổ (1941), Cai (1948), Ăn tết thủy tiên (1956), Khảo về tiểu thuyết (1960), Bốn mươi năm nói láo (1969), Món lạ miền Nam (1970), Cái lồng đèn (1971), Nhà văn lắm chuyện (1971), Những cây cười tiền chiến (1971), Nói có sách (1972), Thương nhớ mười hai (1972), và một số sách dịch.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.