Hôm nay,  

Câu Chuyện Của Một Nhiếp Ảnh Viên Chiến Trường

06/08/200800:00:00(Xem: 11518)
(Thuật lại theo Warren Zinn, “The Washington Post National Weekly Edition” số Tháng Bảy 21-27, 2008 qua bài viết “The Cost of Fame”
Trần Bình Nam)

**

Một người bạn gởi cho tôi một điện thư, viết ngắn gọn: “Chắc mày đã biết, Joseph Dwyer, tên người lính nổi danh bởi tấm hình mày chụp vừa tự tử hôm Thứ Bảy. ”

Tôi đọc mail người lạnh buốt.

Bốn năm rưỡi qua tôi đã gác máy ảnh, từ bỏ chiến trường Afghanistan và Iraq, ghi tên học luật tại Miami. Bức điện thư cho tôi cái cảm tưởng không dễ gì bỏ chiến trường ở lại đằng sau.

Thế là Joseph Dwyer đã chết. Tôi bần thần lái xe về nhà, mở cửa phòng, và kìa Joseph – tấm hình Joseph tôi chụp - ở trên vách đang nhìn tôi như hắn vẫn nhìn tôi mọi ngày.

Tôi là nhiếp ảnh viên chiến trường đi theo một đơn vị bộ binh tiến vào Baghdad khi Hoa Kỳ nổ súng vào tháng 3 năm 2001. Tôi chụp tấm hình khi Joseph Dwyer, một người lính y tá bất chấp hiểm nguy đang bế một em bé người Iraq bị thương chạy ra khỏi vùng lửa đạn. Tấm hình được các cơ quan thông tấn gởi đi khắp thế giới làm Joseph nổi danh. Tôi cắt tấm hình đăng nơi trang đầu của tờ USA Today và dán lên tường. Tôi tự hào với thành quả của mình. Lúc đó tôi mới 25 tuổi.

Tấm hình làm sống lại một đoạn phim vì Joseph vừa chết, ở tuổi 31.

Tôi được tin Joseph bị khủng hoảng tâm thần sau khi hết hạn lính trở về đời sống dân sự. Anh bị ám ảnh bởi chiến tranh và giờ phút nào cũng tưởng quân nổi dậy tìm cách giết anh. Anh ra vào bệnh viện tâm thần như cơm bữa. Mẹ anh nói Joseph không thể quên cảnh giết chóc tại Iraq.

Nhìn tấm hình tôi tự hỏi: Tấm hình này có liên hệ gì đến cái chết của Dwyer không " Nhiều bài báo nói Joseph không thích nổi danh và bực mình với tấm hình. Tôi không biết cái khoảnh khắc 1/250 giây mong manh khi tôi bấm máy, làm ba cuộc đời của ba con người trước đó chưa hề quen biết nhau quyện lại với nhau có phải là điềm báo định mệnh tàn khốc trời dành cho Dwyer không"

**

Trước rạng đông ngày 25 tháng 3 năm 2003, trung đoàn Kỵ binh Không vận số 7 của tôi tới Mishkab, phía nam thủ đô Baghdad, tiến quân trong tư thế chống phục kích. Tôi là phóng viên chiến trường của tờ Army Times. Đang ngủ gà ngủ gật trong một chiếc xe tăng hiệu Bradley thì nhiều tiếng nổ đánh thức tôi dậy. Máy bay đang bỏ bom một ngôi làng cạnh bờ sông Euphrates. Tin tình báo cho biết quân của Saddam Hussein đang bố trí chận đánh chúng tôi.

Tôi vớ chiếc máy ảnh, khoác áo giáp, chụp vội nón sắt lên đầu bò ra khỏi xe. Hàng cây bên bờ sông Euphrates cháy rực trời. Mấy phút sau tôi thấy, qua màn khói và lửa, một người đàn ông cầm một miếng vải trắng, cả hai cánh tay dong lên trời trong tư thế đầu hàng, chập choạng chạy về hướng những người lính đang bố trí.

Tôi nghe anh ta nói trong làng có nhiều người bị thương cần được chở đi bênh viện. Vị sĩ quan chỉ huy nói nếu đem họ ra, đơn vị ông sẽ săn sóc cho .

Người đàn ông chạy ngược vào làng, và mươi phút sau trở ra hai tay ẵm một đứa bé chừng 4 tuổi. Cậu bé ở truồng, chân trái bết đầy máu. Người đàn ông chạy lại phía tôi đang nằm. Tôi tự động đưa máy ảnh lên. Bỗng từ bên phải một người lính y tá – binh nhì Joseph Dwyer  – xuất hiện chạy lại đón lấy chú bé nơi tay người đàn ông rồi hai người chạy hai lối ngược nhau. Dwyer về phía đơn vị của anh, người đàn ông chạy vào làng. Tôi bấm máy lia lịa hy vọng khoảng cách và ánh sáng thích hợp và thầm ước chụp được một tấm ảnh để đời. Tôi nghĩ thế giới cần được thấy sự dũng cảm của người lính Mỹ, không nề hà nguy hiểm để cứu người. Cậu bé bị thương tên là Ali Sattar .

**

Tháng Sáu 2001, tôi tò mò trở lại Mishkab dò hỏi số phận của Ali Sattar. Tôi mang theo tờ báo in hình Joseph đang bế Sattar chạy thục mạng dưới lằn đạn cho dân trong làng xem, và người ta chỉ nhà Sattar cho tôi . Ông bố bế Ali trên tay ra gặp tôi. Ali bị gãy xương giò chân trái khá nặng, và tại Iraq không đủ điều kiện săn sóc hậu giải phẫu, Ali đi đứng khó khăn, cần có người giúp khi di chuyển. Tôi ở chơi với gia đình Ali cả buổi chiều. Tôi chia kẹo M&M cho mọi người cùng ăn, uống Pepsi Mỹ và trà Iraq. Tôi nói nhiều đến tấm hình, Ali hơi nhút nhác nhưng tỏ ra thích tấm hình; người trong nhà, trái lại, tỏ vẻ ngạc nhiên không biết tấm hình đó có ý nghĩa gì mà tôi quan tâm như vậy. Khi tôi từ biệt gia đình bước ra cửa, tiếng phản lực cơ chát chúa trên bầu trời. Mặt Ali biến sắc đầy vẻ kinh hoàng.

Có lẽ lúc này Ali đã 9 tuổi. Thỉnh thoảng tôi nghĩ đến cậu bé, tự hỏi không biết cậu đang ở đâu, làm gì, và lớn lên có hoàn toàn bình phục và quên được sự kinh hoàng của chiến tranh không. Tôi biết Dwyer cũng thỉnh thoảng nghĩ đến Ali.

**

Buổi sáng đáng nhớ đó Joseph và tôi chỉ nói chuyện được với nhau khoảng một tiếng đồng hồ. Sau đó chiến trận kéo mỗi người đi một ngả. Cho nên tôi ngạc nhiên khi nhận được một điện thư của Dwyer vào khoảng một hay hai tháng gì đó sau ngày tôi trở lại thăm Mishkab. Tôi tưởng Joseph đã trở về Mỹ hay ít nhất không còn ở Iraq nữa. Dwyer hỏi tôi có được tin gì về Ali Sattar không. Trong điện thư trả lời tôi thuật chuyện tôi vừa trở lại chiến trường năm xưa thăm cậu bé.

Ngày 6 tháng 8 năm 2003 trong một điện thư khác Joseph viết: “Tôi không ngờ anh trở lại thăm Ali. Tôi sợ cậu bé không qua khỏi. Ước gì tôi đã cùng đi với anh trong chuyến đi đó”.

Tháng 11 Joseph viết “Này Warren, anh đã làm tôi nổi danh với tấm hình. Hy vọng anh khỏe và bình an”. Joseph hỏi tôi hôm đó có chụp thêm được tấm hình nào khác không, nếu có thì gởi cho anh và hỏi tôi có biết tin gì thêm về cậu bé Ali không.

Tháng 1 năm 2004 quân đội gọi tôi trở lại công tác chụp hình tại Iraq. Nhưng tôi đã treo máy, quyết định từ giả chiến trường sau hai chuyến công tác tại Afghanistan và Iraq. Những chuyến đi của tôi đã làm cho gia đình tôi, bạn bè tôi lên ruột và bản thân tôi cũng đã trải qua bao trầy trụa. Cái khác giữa tôi – lính giao kèo - và những người như Dwyer – lính tình nguyện - là tôi có quyền chọn lựa, họ thì không.

Bỏ nghề nhiếp ảnh chiến trường tôi dọn nhà về Miami và ghi tên học luật . Tôi có liên lạc với Joseph vài lần. Anh ta không nói cho tôi biết anh chật vật trở về  đời sống dân sự sau ba tháng ở chiến trường Iraq. Năm 2005 đọc báo tôi mới biết Dwyer bị bệnh khủng hoảng tinh thần vì chứng kiến những thảm cảnh của chiến tranh. Dwyer bị ám ảnh bởi quân nổi dậy lúc nào cũng chực giết anh nên đã chận cửa không cho bất cứ ai vào nhà và bắn vào những hình bóng tưởng tượng ở bên ngoài và bị cảnh sát bắt.

Tôi nhớ trước đó vào ngày 1/12/2004 Joseph viết cho tôi một điện thư nội dung: “Trở về từ Iraq tôi chẳng muốn nói với ai về chiến tranh. Bây giờ nhìn lại mới thấy mình đã làm một công việc vô cùng to lớn. Tôi nghĩ anh cũng có cảm tưởng như vậy. Anh ghi lại sự chiến đấu can trường của mọi người trên trận địa và làm cho người dân sống ở hậu phương tiếp cận với chiến tranh.”

Lúc này khi ghi lại nguyên văn điện thư đó của Joseph tôi không khỏi tự hỏi, cái gì đã xẩy đến cho Joseph khi hắn viết mấy dòng chữ trên, và điều hắn nói về tôi quả có thật vậy không .

Người lính Mỹ thường cam đảm và không quản ngại hy sinh trên chiến trường, nhưng ít khi được ghi nhận. Cái khác với trường hợp của Dwyer là khi hắn xả thân quên mình để cứu người thì có tôi chờ đó với chiếc máy ảnh trong tay. Nếu người lính nào cũng có nhiếp ảnh viên bên cạnh thì có lẽ báo chí không có chỗ để in những tấm hình đáng ngưỡng mộ .

Một tấm hình khác liên quan đến chiến tranh chụp rất xa chiến trường tôi ưa ý là tấm hình tôi chụp một người lính Mỹ sau khi hết hạn hai tuần nghỉ phép R&R lên máy bay quân sự trở lại chiến trường tại phi trường Baltimore-Washington. Anh mặc quân phục tác chiến, tay dắt đứa con trai bước dọc theo hành lang dẫn vào cổng máy bay. Tôi chụp tấm hình từ phía sau lưng khi anh và đứa con trai sắp bước vào cầu thang máy, chú bé đứng ngang thắt lưng anh. Một người lính vô danh không biết bà vợ đang ở đâu, sắp từ biệt con, ra chiến trường với niềm hy vọng sẽ trở về với con một ngày rất gần.

Nổi niềm không ai biết, cũng như hiện nay có biết bao nhiêu người lính trẻ cơ thể và tâm hồn đang bị dày vò bởi vết thương chiến tranh. Nếu không có tấm hình của tôi chắc chẳng ai để ý vừa có một người lính chết vì hậu quả gián tiếp của chiến tranh .

**

Một tuần sau khi Joseph chết, mẹ Joseph gọi tôi. Tôi cố tìm bà để chia buồn. Bà Mauren Dwyer cho tôi biết tin tức thuật rằng Joseph bực mình vì sự nổi danh do bức hình tôi chụp là không đúng. Bà nói Joseph thích tấm hình và tự hào về nó, chỉ hơi bất bình khi nghĩ rằng nhiều binh sĩ Mỹ cũng hy sinh như vậy mà không được ai biết tới.

Cũng như Joseph tôi tự hào đã chụp một tấm hình đáng giá, nhưng tôi nghĩ nhiều người lính đã làm nhiều việc đáng tưởng thưởng hơn tôi nhiều. Tôi thấy ngượng khi nhiều tờ báo khen tấm hình để lại một dấu ấn trong ngành nhiếp ảnh chiến trường và đem nó so sánh với những tấm hình chụp nổi tiếng khác trên thế giới. Tôi chỉ là một phóng viên chiến trường tầm thường và đã chụp những gì hiện ra trước mắt giống như các nhiếp ảnh viên chiến trường khác chứ không có tài cán gì đặc biệt. Trong cuộc tấn công vào Baghdad tôi đã thấy nhiều tấm hình có giá trị hơn nhiều.

Người nhiếp ảnh chiến trường thường hay nói đùa rằng khi họ đưa chiếc máy ảnh lên tầm ngắm, chiếc máy cách ly họ với ngoại cảnh. Thật ra người nhiếp ảnh tiếp cận với môi trường chung quanh một cách cận kề hơn qua lỗ nhắm, và anh ta cũng không tránh được mùi vị và tiếng động của chiến trường. Cho nên người ký giả chụp hình không phải là người ngoài cuộc mà là một nhân vật khắng khít với chiến tranh. Tôi không chia xẻ nhiều hệ lụy của chiến tranh như Ali và Joseph, nhưng tiếng động của chiến trường cũng không chịu rời bỏ tôi. Tiếng pháo bông của những ngày lễ lớn vẫn làm tôi giật mình.

Tôi không biết tấm hình Joseph và Ali có phải là tấm hình quý nhất tôi đã chụp hay tôi ưa thích nhất không, nhưng tôi biết nó nói lên được một cái gì quan trọng. Nó nói lên niềm hy vọng. Hy vọng nước Mỹ đang làm một điều gì đúng tại Iraq, rằng người lính Mỹ có mặt tại Iraq là để giúp người Iraq, và rằng binh sĩ Mỹ quý sinh mạng con người trên tất cả mọi thứ.

Nhưng lúc này qua tấm hình niềm hy vọng mờ nhạt đi khi tôi liên tưởng biết bao người lính trẻ đã bị chấn thương về tinh thần và vật chất vì chiến tranh và niềm hy vọng của họ đang biến thành sự thất vọng. Đó là điều đã xảy ra cho Joseph Dwyer bị ám ảnh và dày vò bởi những gì anh đã chứng kiến tại chiến trường.

Tấm hình nói lên sự hy sinh của Joseph Dwyer để bảo vệ sự sống. Trớ trêu là, Joseph đã không đủ khả năng bảo vệ sự sống của chính mình./.

Trần Bình Nam thuật
August 5, 2008
[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ryanne Mena là một nhà báo đưa tin về tội phạm và an toàn công cộng cho Southern California News Group. Thứ Sáu, 6/6, ngày đầu tiên diễn ra cuộc biểu tình phản đối chính sách nhập cư của chính quyền Trump, chống lại các cuộc bố ráp của Cảnh Sát Di Trú (ICE), Mena đã có mặt ngay trên đường phố Los Angeles, bên ngoài Trung tâm giam giữ Metropolitan,L.A. Tại đây, cô bị trúng đạn hơi cay ở đùi bên trái Ngày kế tiếp, nữ phóng viên này bị trúng đạn cao su của các đặc vụ liên bang bắn vào đầu, bên phải, cách tai của cô chỉ khoảng 1 inch. Những tấm ảnh Mena và các đồng nghiệp khác bị thương lan tỏa khắp Instagram, Twitter.
Giữa lúc Tòa Bạch Ốc đang tìm mọi cách cứu vớt mối quan hệ Trump-Musk thì các cựu quan chức an ninh y tế cho biết chính quyền Trump hủy bỏ $766 triệu trong các hợp đồng nghiên cứu phát triển vaccine mRNA để chống lại các loại đại dịch cúm. Với họ, đây là đòn giáng mới nhất vào quốc phòng quốc gia. Họ cảnh báo rằng Hoa Kỳ có thể phải nhờ đến lòng trắc ẩn của các quốc gia khác trong đại dịch tiếp theo. ABC News dẫn lời Beth Cameron, cố vấn cao cấp của Trung tâm Đại dịch thuộc Brown University Pandemic Center, và là cựu giám đốc Hội đồng an ninh quốc gia Tòa Bạch Ốc, cho biết: “Các hành động của chính quyền đang làm suy yếu khả năng phòng ngừa của chúng ta đối với các mối đe dọa sinh học. Việc hủy bỏ khoản đầu tư này là một tín hiệu cho thấy chúng ta đang thay đổi lập trường về công tác chuẩn bị ứng phó với đại dịch. Và điều đó không tốt cho người dân Mỹ.”
Ăn mặc đẹp là nói về thời trang. Lịch sử “thời trang cao cấp” thuộc về truyền thống của Pháp: Haute couture từ thế kỷ 17. Đến thế kỷ 19, ngành thời trang cao cấp đã phát triển thành một phương tiện kích thích tăng trưởng trong nền kinh tế Pháp. Trong thời gian này, các nhà tạo mốt như Dior, Chanel và Balenciaga đã được thành lập. Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, ngành thời trang cao cấp ở Pháp đã mất đi phần lớn sự huyền bí của mình và phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thị trường quốc tế khác, đặc biệt là ở Ý và Hoa Kỳ. Sự thành công của bối cảnh thời trang quốc tế và tiềm năng lợi nhuận đã thu hút sự chú ý của các tập đoàn hàng xa xỉ, được tiên phong bởi ông trùm kinh doanh người Pháp và người sáng lập LVMH Bernard Arnault vào năm 1987. Ngày nay, các tập đoàn này vẫn tiếp tục duy trì hoạt động lịch sử của các nhà thời trang xa xỉ thông qua việc bổ nhiệm các giám đốc sáng tạo, những người diễn giải và chỉ đạo triết lý thiết kế của thương hiệu.
Chiều Thứ Sáu cuối cùng của Tháng Năm 2025, tỷ phú nhất thế giới Elon Musk, người đứng đầu Bộ Hiệu Quả Chính Phủ (DOGE) bước vào Phòng Bầu Dục. Musk đội nón kết đen có chữ MAGA, mặc áo thun đen có chữ “The Dogefather,” vest đen, đứng kế Tổng thống Trump – chỗ đứng quen thuộc của Musk từ khi Trump tái đắc cử. Hình truyền thông từ Phòng Bầu Dục đưa đi cho thấy, thỉnh thoảng, đôi mắt của Elon Musk nhắm nghiền với vết bầm trên mắt phải chưa tan, đầu lắc lư, lắc lư. Không biết là ông ta đang tận hưởng không khí phủ đầy vàng của Bạch Cung hay tâm hồn đang…phiêu diêu ở Sao Hỏa? Đó là ngày cuối cùng được cho là ngày làm việc của Musk trong Tòa Bạch Ốc, theo cách chính quyền Trump thông báo.
Dù cụm từ này mới phổ biến trong thế kỷ 21, DEI thực ra là một là chương mới trong hành trình dài kiến tạo một xã hội công bằng của nước Mỹ. Các giá trị mà DEI hướng tới đã từng được khẳng định trong các văn kiện lập quốc, và tiếp tục được củng cố thông qua những cột mốc quan trọng như Đạo Luật Dân Quyền năm 1964, các Chính Sách Nâng Đỡ Người Thiểu Số, cùng những phong trào đấu tranh vì công bằng sắc tộc, bình đẳng giới, quyền lợi người tàn tật, cựu quân nhân và di dân
Trong lịch sử cuộc chiến Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhân danh dân tộc để lãnh đạo toàn diện công cuộc đấu tranh giành độc lập và cuối cùng thống nhất đất nước vào năm 1975. Sau 50 năm, đất nước đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới và Đảng vẫn còn tiếp tục độc quyền quyết định vận mệnh cho dân tộc. Trong bối cảnh mới tất nhiên đất nước có nhiều triển vọng mới. Thực ra, từ lâu, đã có hai lập luận về vai trò của Đảng đã được thảo luận.
Ngày 18 Tháng Năm 2025, báo điện tử Tuổi Trẻ đưa tin ông Phạm Minh Chính (thủ tướng nước Việt Nam) hướng dẫn Bộ Nội vụ Việt Nam chuẩn bị phát động phong trào toàn dân thi đua làm giàu, đóng góp, xây dựng, bảo vệ đất nước. Phong trào thi đua này dựa trên nội dung trọng tâm, cốt lõi của nghị quyết 68 của Bộ Chính trị Việt Nam về phát triển kinh tế tư nhân và kế hoạch thực hiện nghị quyết này.
Ngày 1 tháng 5 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump trong lúc ban hành sắc lệnh hành pháp thành lập Ủy Ban Tổng Thống Về Tự Do Tôn Giáo đã nói rằng, “Họ nói tách rời nhà thờ và nhà nước… Tôi nói, ‘Được rồi, hãy quên chuyện đó một lần đi’,” theo bản tin của Politico được đăng trên trang www.politico.com cho biết. Lời phát biểu của TT Trump đã mở ra sự tranh luận về sự tách biệt giữa nhà thờ và nhà nước mà vốn được Hiến Pháp Hoa Kỳ công nhận trong bối cảnh Tòa Bạch Ốc gia tăng sự nhiệt tình đối với Thiên Chúa Giáo, theo Politico. TT Trump ngày càng dựa vào đức tin Thiên Chúa Giáo qua việc thiết lập Văn Phòng Đức Tin Bạch Ốc tại phòng West Wing, mời các mục sư vào Phòng Bầu Dục và trong các cuộc họp Nội Các, và ban hành các sắc lệnh hành pháp để xóa bỏ “khuynh hướng chống Thiên Chúa Giáo” trong chính quyền. Mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị xưa nay vốn phức tạp.
Hermann Rorschach là một bác sĩ tâm thần và nhà phân tâm học. Ông nổi tiếng về phát minh ra một bài kiểm tra tâm lý qua những hình ảnh tạo ra ngẫu nhiên từ các vết mực (inkblot.) Một người được yêu cầu mô tả những gì họ nhìn thấy trong hình ảnh do những vết mực không rõ ràng kết thành. Bác sĩ Rorschach tin rằng những hình ảnh được tạo nên từ vết mực có thể bộc lộ đặc trưng bí mật trong hành vi lẫn tình cảm của con người. Bài trắc nghiệm khách quan này thường xuất hiện trong văn hóa đại chúng và thường được mô tả như một cách để tiết lộ những suy nghĩ, động cơ hoặc mong muốn vô thức của một người.
Quyền lực là khả năng khiến người khác làm những gì bạn muốn. Điều đó có thể được thực hiện bằng cách cưỡng ép ("gậy gộc"), thanh toán ("cà rốt") và thu hút ("mật ong"). Hai phương pháp đầu tiên là dạng quyền lực cứng, trong khi lực thu hút là quyền lực mềm. Quyền lực mềm phát triển từ văn hóa của một quốc gia, các giá trị chính trị và chính sách đối ngoại của nó. Trong ngắn hạn, quyền lực cứng thường vượt trội hơn quyền lực mềm. Nhưng về lâu dài, quyền lực mềm thường chiếm ưu thế. Joseph Stalin đã từng hỏi một cách chế giễu, "Đức Giáo hoàng có bao nhiêu sư đoàn?" Nhưng triều đại giáo hoàng vẫn tiếp tục cho đến ngày nay, trong khi Liên Xô của Stalin đã biến mất từ lâu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.