Hôm nay,  

Câu Chuyện Của Một Nhiếp Ảnh Viên Chiến Trường

06/08/200800:00:00(Xem: 11563)
(Thuật lại theo Warren Zinn, “The Washington Post National Weekly Edition” số Tháng Bảy 21-27, 2008 qua bài viết “The Cost of Fame”
Trần Bình Nam)

**

Một người bạn gởi cho tôi một điện thư, viết ngắn gọn: “Chắc mày đã biết, Joseph Dwyer, tên người lính nổi danh bởi tấm hình mày chụp vừa tự tử hôm Thứ Bảy. ”

Tôi đọc mail người lạnh buốt.

Bốn năm rưỡi qua tôi đã gác máy ảnh, từ bỏ chiến trường Afghanistan và Iraq, ghi tên học luật tại Miami. Bức điện thư cho tôi cái cảm tưởng không dễ gì bỏ chiến trường ở lại đằng sau.

Thế là Joseph Dwyer đã chết. Tôi bần thần lái xe về nhà, mở cửa phòng, và kìa Joseph – tấm hình Joseph tôi chụp - ở trên vách đang nhìn tôi như hắn vẫn nhìn tôi mọi ngày.

Tôi là nhiếp ảnh viên chiến trường đi theo một đơn vị bộ binh tiến vào Baghdad khi Hoa Kỳ nổ súng vào tháng 3 năm 2001. Tôi chụp tấm hình khi Joseph Dwyer, một người lính y tá bất chấp hiểm nguy đang bế một em bé người Iraq bị thương chạy ra khỏi vùng lửa đạn. Tấm hình được các cơ quan thông tấn gởi đi khắp thế giới làm Joseph nổi danh. Tôi cắt tấm hình đăng nơi trang đầu của tờ USA Today và dán lên tường. Tôi tự hào với thành quả của mình. Lúc đó tôi mới 25 tuổi.

Tấm hình làm sống lại một đoạn phim vì Joseph vừa chết, ở tuổi 31.

Tôi được tin Joseph bị khủng hoảng tâm thần sau khi hết hạn lính trở về đời sống dân sự. Anh bị ám ảnh bởi chiến tranh và giờ phút nào cũng tưởng quân nổi dậy tìm cách giết anh. Anh ra vào bệnh viện tâm thần như cơm bữa. Mẹ anh nói Joseph không thể quên cảnh giết chóc tại Iraq.

Nhìn tấm hình tôi tự hỏi: Tấm hình này có liên hệ gì đến cái chết của Dwyer không " Nhiều bài báo nói Joseph không thích nổi danh và bực mình với tấm hình. Tôi không biết cái khoảnh khắc 1/250 giây mong manh khi tôi bấm máy, làm ba cuộc đời của ba con người trước đó chưa hề quen biết nhau quyện lại với nhau có phải là điềm báo định mệnh tàn khốc trời dành cho Dwyer không"

**

Trước rạng đông ngày 25 tháng 3 năm 2003, trung đoàn Kỵ binh Không vận số 7 của tôi tới Mishkab, phía nam thủ đô Baghdad, tiến quân trong tư thế chống phục kích. Tôi là phóng viên chiến trường của tờ Army Times. Đang ngủ gà ngủ gật trong một chiếc xe tăng hiệu Bradley thì nhiều tiếng nổ đánh thức tôi dậy. Máy bay đang bỏ bom một ngôi làng cạnh bờ sông Euphrates. Tin tình báo cho biết quân của Saddam Hussein đang bố trí chận đánh chúng tôi.

Tôi vớ chiếc máy ảnh, khoác áo giáp, chụp vội nón sắt lên đầu bò ra khỏi xe. Hàng cây bên bờ sông Euphrates cháy rực trời. Mấy phút sau tôi thấy, qua màn khói và lửa, một người đàn ông cầm một miếng vải trắng, cả hai cánh tay dong lên trời trong tư thế đầu hàng, chập choạng chạy về hướng những người lính đang bố trí.

Tôi nghe anh ta nói trong làng có nhiều người bị thương cần được chở đi bênh viện. Vị sĩ quan chỉ huy nói nếu đem họ ra, đơn vị ông sẽ săn sóc cho .

Người đàn ông chạy ngược vào làng, và mươi phút sau trở ra hai tay ẵm một đứa bé chừng 4 tuổi. Cậu bé ở truồng, chân trái bết đầy máu. Người đàn ông chạy lại phía tôi đang nằm. Tôi tự động đưa máy ảnh lên. Bỗng từ bên phải một người lính y tá – binh nhì Joseph Dwyer  – xuất hiện chạy lại đón lấy chú bé nơi tay người đàn ông rồi hai người chạy hai lối ngược nhau. Dwyer về phía đơn vị của anh, người đàn ông chạy vào làng. Tôi bấm máy lia lịa hy vọng khoảng cách và ánh sáng thích hợp và thầm ước chụp được một tấm ảnh để đời. Tôi nghĩ thế giới cần được thấy sự dũng cảm của người lính Mỹ, không nề hà nguy hiểm để cứu người. Cậu bé bị thương tên là Ali Sattar .

**

Tháng Sáu 2001, tôi tò mò trở lại Mishkab dò hỏi số phận của Ali Sattar. Tôi mang theo tờ báo in hình Joseph đang bế Sattar chạy thục mạng dưới lằn đạn cho dân trong làng xem, và người ta chỉ nhà Sattar cho tôi . Ông bố bế Ali trên tay ra gặp tôi. Ali bị gãy xương giò chân trái khá nặng, và tại Iraq không đủ điều kiện săn sóc hậu giải phẫu, Ali đi đứng khó khăn, cần có người giúp khi di chuyển. Tôi ở chơi với gia đình Ali cả buổi chiều. Tôi chia kẹo M&M cho mọi người cùng ăn, uống Pepsi Mỹ và trà Iraq. Tôi nói nhiều đến tấm hình, Ali hơi nhút nhác nhưng tỏ ra thích tấm hình; người trong nhà, trái lại, tỏ vẻ ngạc nhiên không biết tấm hình đó có ý nghĩa gì mà tôi quan tâm như vậy. Khi tôi từ biệt gia đình bước ra cửa, tiếng phản lực cơ chát chúa trên bầu trời. Mặt Ali biến sắc đầy vẻ kinh hoàng.

Có lẽ lúc này Ali đã 9 tuổi. Thỉnh thoảng tôi nghĩ đến cậu bé, tự hỏi không biết cậu đang ở đâu, làm gì, và lớn lên có hoàn toàn bình phục và quên được sự kinh hoàng của chiến tranh không. Tôi biết Dwyer cũng thỉnh thoảng nghĩ đến Ali.

**

Buổi sáng đáng nhớ đó Joseph và tôi chỉ nói chuyện được với nhau khoảng một tiếng đồng hồ. Sau đó chiến trận kéo mỗi người đi một ngả. Cho nên tôi ngạc nhiên khi nhận được một điện thư của Dwyer vào khoảng một hay hai tháng gì đó sau ngày tôi trở lại thăm Mishkab. Tôi tưởng Joseph đã trở về Mỹ hay ít nhất không còn ở Iraq nữa. Dwyer hỏi tôi có được tin gì về Ali Sattar không. Trong điện thư trả lời tôi thuật chuyện tôi vừa trở lại chiến trường năm xưa thăm cậu bé.

Ngày 6 tháng 8 năm 2003 trong một điện thư khác Joseph viết: “Tôi không ngờ anh trở lại thăm Ali. Tôi sợ cậu bé không qua khỏi. Ước gì tôi đã cùng đi với anh trong chuyến đi đó”.

Tháng 11 Joseph viết “Này Warren, anh đã làm tôi nổi danh với tấm hình. Hy vọng anh khỏe và bình an”. Joseph hỏi tôi hôm đó có chụp thêm được tấm hình nào khác không, nếu có thì gởi cho anh và hỏi tôi có biết tin gì thêm về cậu bé Ali không.

Tháng 1 năm 2004 quân đội gọi tôi trở lại công tác chụp hình tại Iraq. Nhưng tôi đã treo máy, quyết định từ giả chiến trường sau hai chuyến công tác tại Afghanistan và Iraq. Những chuyến đi của tôi đã làm cho gia đình tôi, bạn bè tôi lên ruột và bản thân tôi cũng đã trải qua bao trầy trụa. Cái khác giữa tôi – lính giao kèo - và những người như Dwyer – lính tình nguyện - là tôi có quyền chọn lựa, họ thì không.

Bỏ nghề nhiếp ảnh chiến trường tôi dọn nhà về Miami và ghi tên học luật . Tôi có liên lạc với Joseph vài lần. Anh ta không nói cho tôi biết anh chật vật trở về  đời sống dân sự sau ba tháng ở chiến trường Iraq. Năm 2005 đọc báo tôi mới biết Dwyer bị bệnh khủng hoảng tinh thần vì chứng kiến những thảm cảnh của chiến tranh. Dwyer bị ám ảnh bởi quân nổi dậy lúc nào cũng chực giết anh nên đã chận cửa không cho bất cứ ai vào nhà và bắn vào những hình bóng tưởng tượng ở bên ngoài và bị cảnh sát bắt.

Tôi nhớ trước đó vào ngày 1/12/2004 Joseph viết cho tôi một điện thư nội dung: “Trở về từ Iraq tôi chẳng muốn nói với ai về chiến tranh. Bây giờ nhìn lại mới thấy mình đã làm một công việc vô cùng to lớn. Tôi nghĩ anh cũng có cảm tưởng như vậy. Anh ghi lại sự chiến đấu can trường của mọi người trên trận địa và làm cho người dân sống ở hậu phương tiếp cận với chiến tranh.”

Lúc này khi ghi lại nguyên văn điện thư đó của Joseph tôi không khỏi tự hỏi, cái gì đã xẩy đến cho Joseph khi hắn viết mấy dòng chữ trên, và điều hắn nói về tôi quả có thật vậy không .

Người lính Mỹ thường cam đảm và không quản ngại hy sinh trên chiến trường, nhưng ít khi được ghi nhận. Cái khác với trường hợp của Dwyer là khi hắn xả thân quên mình để cứu người thì có tôi chờ đó với chiếc máy ảnh trong tay. Nếu người lính nào cũng có nhiếp ảnh viên bên cạnh thì có lẽ báo chí không có chỗ để in những tấm hình đáng ngưỡng mộ .

Một tấm hình khác liên quan đến chiến tranh chụp rất xa chiến trường tôi ưa ý là tấm hình tôi chụp một người lính Mỹ sau khi hết hạn hai tuần nghỉ phép R&R lên máy bay quân sự trở lại chiến trường tại phi trường Baltimore-Washington. Anh mặc quân phục tác chiến, tay dắt đứa con trai bước dọc theo hành lang dẫn vào cổng máy bay. Tôi chụp tấm hình từ phía sau lưng khi anh và đứa con trai sắp bước vào cầu thang máy, chú bé đứng ngang thắt lưng anh. Một người lính vô danh không biết bà vợ đang ở đâu, sắp từ biệt con, ra chiến trường với niềm hy vọng sẽ trở về với con một ngày rất gần.

Nổi niềm không ai biết, cũng như hiện nay có biết bao nhiêu người lính trẻ cơ thể và tâm hồn đang bị dày vò bởi vết thương chiến tranh. Nếu không có tấm hình của tôi chắc chẳng ai để ý vừa có một người lính chết vì hậu quả gián tiếp của chiến tranh .

**

Một tuần sau khi Joseph chết, mẹ Joseph gọi tôi. Tôi cố tìm bà để chia buồn. Bà Mauren Dwyer cho tôi biết tin tức thuật rằng Joseph bực mình vì sự nổi danh do bức hình tôi chụp là không đúng. Bà nói Joseph thích tấm hình và tự hào về nó, chỉ hơi bất bình khi nghĩ rằng nhiều binh sĩ Mỹ cũng hy sinh như vậy mà không được ai biết tới.

Cũng như Joseph tôi tự hào đã chụp một tấm hình đáng giá, nhưng tôi nghĩ nhiều người lính đã làm nhiều việc đáng tưởng thưởng hơn tôi nhiều. Tôi thấy ngượng khi nhiều tờ báo khen tấm hình để lại một dấu ấn trong ngành nhiếp ảnh chiến trường và đem nó so sánh với những tấm hình chụp nổi tiếng khác trên thế giới. Tôi chỉ là một phóng viên chiến trường tầm thường và đã chụp những gì hiện ra trước mắt giống như các nhiếp ảnh viên chiến trường khác chứ không có tài cán gì đặc biệt. Trong cuộc tấn công vào Baghdad tôi đã thấy nhiều tấm hình có giá trị hơn nhiều.

Người nhiếp ảnh chiến trường thường hay nói đùa rằng khi họ đưa chiếc máy ảnh lên tầm ngắm, chiếc máy cách ly họ với ngoại cảnh. Thật ra người nhiếp ảnh tiếp cận với môi trường chung quanh một cách cận kề hơn qua lỗ nhắm, và anh ta cũng không tránh được mùi vị và tiếng động của chiến trường. Cho nên người ký giả chụp hình không phải là người ngoài cuộc mà là một nhân vật khắng khít với chiến tranh. Tôi không chia xẻ nhiều hệ lụy của chiến tranh như Ali và Joseph, nhưng tiếng động của chiến trường cũng không chịu rời bỏ tôi. Tiếng pháo bông của những ngày lễ lớn vẫn làm tôi giật mình.

Tôi không biết tấm hình Joseph và Ali có phải là tấm hình quý nhất tôi đã chụp hay tôi ưa thích nhất không, nhưng tôi biết nó nói lên được một cái gì quan trọng. Nó nói lên niềm hy vọng. Hy vọng nước Mỹ đang làm một điều gì đúng tại Iraq, rằng người lính Mỹ có mặt tại Iraq là để giúp người Iraq, và rằng binh sĩ Mỹ quý sinh mạng con người trên tất cả mọi thứ.

Nhưng lúc này qua tấm hình niềm hy vọng mờ nhạt đi khi tôi liên tưởng biết bao người lính trẻ đã bị chấn thương về tinh thần và vật chất vì chiến tranh và niềm hy vọng của họ đang biến thành sự thất vọng. Đó là điều đã xảy ra cho Joseph Dwyer bị ám ảnh và dày vò bởi những gì anh đã chứng kiến tại chiến trường.

Tấm hình nói lên sự hy sinh của Joseph Dwyer để bảo vệ sự sống. Trớ trêu là, Joseph đã không đủ khả năng bảo vệ sự sống của chính mình./.

Trần Bình Nam thuật
August 5, 2008
[email protected]
www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.