Hôm nay,  

Một Trường Hợp Bệnh Tiểu Đường

11/09/201000:00:00(Xem: 13764)

Một Trường Hợp Bệnh Tiểu Đường
Bác sĩ Trần Mạnh Ngô
Bệnh nhân là một phụ nữ 75 tuổi bị tiểu đường từ 10 năm nay. Kiểm soát tiểu đường khả quan. Bệnh nhân tự đo đường trong máu mỗi ngày, từ 100 mg/dl tơí 160 mg/dl. Thử A1C gần nhất tuần lễ trước đây là 6.2%. Bệnh nhân ăn uống kiêng cữ đường chất ngọt cẩn thận. Mỗi ngày bệnh nhân đi bộ 30 phút. Cân lượng không thay đổi.
Những biến chứng tiểu đường: Thử nghiệm nước tiểu trong vòng 24 giờ, Microalbumin 3.0. Thử mắt chớm bị bệnh võng mạc (retinopathy). Cườm khô. Bị bệnh thần kinh ngoại biên (peripheral neurophathy) nhẹ. Không có tiểu sử bệnh lý bệnh động mạch vành tim. Không có tiểu sử tai biến mạch máu não.
Bệnh nhân đang uống thuốc Prandin 2mg ngày một viên, Lipitor 10mg ngày một viên. Bệnh nhân tự động bỏ Actos 30 mg ngày một viên.
Không có tiểu sử dị ứng. Về tiểu sử bệnh lý quá khứ: Bệnh nhân có bướu cổ, cao mỡ trong máu (hyperlipidemia). Chưa bao giờ bị mổ xẻ trước đây. Gia đình không có ai bị tiểu đường, không ai bị bệnh động mạch vành tim, bệnh tuyến giáp trạng, hay ung thư giáp trạng.
Xem xét lại những cơ quan khác trong cơ thể:
Bệnh nhân cho biết cân lượng không thay đổi, không bị chứng ăn cơm mất ngon. Từ chối mệt mỏi. Từ chối không bị nóng sốt, không ra mồ hôi hay người bị rung chân tay. Từ chối mất ngủ hay cơ thể bứt rứt. Từ chối bị đường xuống thấp. Bệnh nhân chịu đựng được nhiệt độ bên ngoài khi thay đổi nóng hay lạnh. Không bị khát nước, không thấy nuốt khó.
Da: Không bị da ngứa, nổi mẩn. Không bị lở loét da, đau da. Bệnh nhân dễ bị bầm da, không bị dễ chảy máu.
Đầu: Từ chối không bị chứng nhức đầu, không có tiểu sử bị bất tỉnh hay lên cơn kinh phong. Không bị chấn thương trước đây.
Hô hấp: Không bị ho, không ho ra đờm, không ho ra máu.
Tim mạch: Thỉnh thoảng thấy tức ngực. Tim không hồi hộp. Không bị tim đập có tiếng thổi (heart murmurs).
Bộ phận tiêu hoá: Từ chối không bị nuốt khó, không nóng sau lồng ngực (heartburn), không ói mửa, hay ói ra máu. Không bị đau bụng. Không bị viêm gan, không có tiểu sử vàng da. Không đi cầu ra máu. Không bị tiêu chẩy hay táo bón.
Đường tiểu: Không bị đi tiểu nhiều. Không tiểu ra máu. Từ chối không bị tiểu đêm hay tiểu són. Không bị sạn thận.
Xương và bắp thịt: Không bị đau khớp xương, không bị sưng khớp xương, không đau lưng. Không đau bắp chân, không bị chuột rút.
Hệ thống thần kinh: Không có tiểu sử tai biến mạch máu não hay kinh phong. Không bị yếu cử động chân tay, không bị teo bắp thịt. Không bị rung chân tay, không bị tê chân tay. Không thấy đau đớn chỗ nào, không bị dị cảm (paresthesia). Không bị mất trí nhớ hay nói năng lắp bắp.
Khám bệnh tổng quát cho thấy bệnh nhân là một phụ nữ 75 tuổi, không ở trong tình trạng khẩn cấp, cân nặng 116 lbs, chiều cao 5’. Nhiệt độ cơ thể 97.7, Mạch 72, Nhịp thở 14, Huyết áp 100/60, Đường 127 mg/dl. Tai Mắt Mũi Họng: bình thường, củng mắt không bị vàng. Khám cổ thấy tuyến giáp trạng lớn khoảng 45 gm. Thùy trái giáp trạng lớn hơn thùy phải. Không có tiếng thổi (murmur) khi dùng ống nghe. Phổi: Nghe 2 bên phổi không thấy gì (clear). Khám tim thấy S1 và S2 bình thường. Không có S3 và S4. Không có tiếng thổi. Khám bụng thấy mềm, rờ bụng không kêu đau, không cứng. Gan và lá lách không lớn. Khám thần kinh không thấy liệt (no-focal examination).
Thử máu phòng thí nghiệm trong gần 2 năm nay cho kết quả khoảng 3-4 tháng thử theo dõi một lần: Calcium: bình thường, BUN bình thường, Creatinine: bình thường. Đường 136, 107, 91, 15, 100; Chloride bình thường; Potassium bình thường; CO2 bình thường; Total Alk Phos. bình thường; SGOT bình thường; SGPT bình thường; Total bilirubin bình thường; Direct bilirubin bình thường; Total protein bình thường; Albumin bình thường; Globulin bình thường; A/G ratio bình thường; GhbA1C: 6.9, 6.5, 8.0, 7.5, 6.2; Đường trong máu: 182, 166, 126; Cholesterol: 151, 143, 192, 190; Triglycerides: 136, 145, 151, 78; HDL: 34, 28, 36; LDL: 90, 86, 132, 138, ; VLDL 27.2, 29.0, 30.2, 15.6; Chol/HDL: 4.44, 5.11, 6.4, 5.28; Highly sensitive TSH: 0.97, 0.84.


Đo độ phóng xạ của i-ốt hấp thu vào tuyến giáp trạng (thyroid uptake) và Chụp hình giáp trạng (thyroid scan) thấy kích thước tuyến giáp trạng ở trên mức bình thường, hình phóng xạ không đồng đều, và độ phóng xạ thấp. Khoảng giữa tuyến giáp trạng thùy bên phải có vùng phóng xạ tăng cao, mô bình thường. Không thấy vùng hạt phóng xạ thấp. Không thấy tăng độ phóng xạ phần ngoài tuyến giáp trạng hay thùy tháp (pyradimal) giáp trạng. Kết luận: Tình trạng hoạt động giáp trạng thấp, tuyến giáp trạng hơi lớn, bướu giáp (goiter) dạng keo (colloid) thoái hoá (degenerative) hay tình trạng đã từng bị viêm giáp trạng trước đây.
Siêu âm giáp trạng thấy: Thùy bên phải giáp trạng đo: 8.1x3.0x3.4 cm và thùy bên trái giáp trạng đo 8.4x3.0x4.2 cm, không thay đổi kích thước so vơí hình siêu âm giáp trạng cũ. Thùy bên phải có cục bướu nang đo 1.4x1.5x1.6 cm, kích thước không thay đổi so với siêu âm trước đây. Phía đỉnh thuỳ giáp trạng phải còn thêm một cục bướu nhỏ đo 0.8cm, không thay đổi kích thước so vơí hình chụp trước đây. Kết quả cho thấy: bệnh nhân có cục bướu giáp trạng, cục lớn nhất 1.5 cm ở phần giữa thùy giáp trạng bên phải, nhỏ hơn 2 cm so vơí hình siêu âm trước đây. Những cục bướu khác và nang giáp trạng không thay đổi so vơí hình siêu âm giáp trạng trước đây.
Kết luận:
1) Bệnh nhân bị bệnh tiểu đường loại 2 (Diabetes mellitus). HbA1C hạ thấp từ 7.5 xuống 6.2, sau khi cho th êm Actos.
2) Cao mỡ trong máu (Hyperlipidemia). Bệnh nhân uống Lipitor. LDL hãy còn cao.
3) Bệnh võng mạc nhẹ (Non-proliferative retinopathy). Cườm khô (cataract). Viêm thần kinh ngoại biên (peripheral neuropathy) nhẹ.
4) Bướu giáp trạng hoạt động bình thường. Bệnh nhân noí đã bị bệnh bướu giáp trạng không thay đổi kích thước 15-20 năm qua. Theo dõi cục bướu lớn nhất thùy bên phải 1.5 cm đã nhỏ hơn trước đây. Bệnh nhân từ chối làm sinh thiết. Hẹn làm siêu âm giáp trạng lại 6 tháng sau.
Bệnh nhân tiếp tục uống Prandin 2 mg mỗi ngày và Actos 30 mg mỗi ngày.
Tăng cao liều Lipitor lên 20 mg mỗi ngày.
Bệnh nhân trở lại 3 tháng sau thử nghiệm máu.
Khám mắt 3 tháng sau.
Để ý biến chứng tiểu đường như bệnh mắt: cườm khô do tiểu đường (diabetic cataracts), bệnh võng mạc do tiểu đường (diabetic retinopathy), cườm nước mắt (glaucoma). Bệnh thận do tiểu đường (diabetic nephropathy): bạch đản trong nước tiểu (microalbuminuria), diễn biến bệnh thận do tiểu đường (progressive diabetic nephropathy). Bệnh thần kinh do tiểu đường (diabetic neuropathy): bệnh thần kinh ngoại biên (peripheral neuropathy), bệnh thần kinh tự trị (autonomic neuropathy). Biến chứng bệnh tim mạch: bệnh tim như suy tim (congestive cardiomyopathies), xơ cứng động mạch vành tim (coronary atherosclerosis), nhồi máu cơ tim (myocardial infaction). Nguy cơ bệnh tiểu đường loại 2 tăng cao là do hỗn hợp: đường cao trong máu, mỡ cao trong máu, hiện tượng tiểu cầu bất thường dính vào nhau (platelet adhesiveness), những yếu tố đông máu, cao huyết áp, hiện tượng oxýt hoá (oxidative stress), và hiện tượng viêm. Ngoài ra còn thêm biến chứng bệnh ngoài da như nhiễm trùng da làm mủ, vết nâu ngoài da, nhiễm nấm… Những trường hợp đặc biệt như giữ mức đường trong máu không cao khi bệnh nhân nằm bệnh viện, dùng insulin khi giải phẫu bệnh nhân trong bệnh viện, và coi sóc bệnh nhân tiểu đường khi có thai.
Bác sĩ Trần mạnh Ngô, Xin mời ghé thăm Y Dược Ngày Nay, www.yduocngaynay.com, Một Trang Web Y Khoa của người Việt viết cho người Việt.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều phụ nữ không nhận ra rằng những ly rượu, ly bia mà họ thường uống cùng bạn bè, hoặc để thư giãn trong “giờ nhậu của mẹ” (wine mom moment, một số bà mẹ thích nhâm nhi vài ly rượu hoặc lon bia để thư giãn sau khi bận rộn chăm sóc con cái và gia đình) có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú. Tuy điều này có vẻ không vui, nhưng lại là sự thật: Rượu, bia thực sự có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư vú.
Cảm giác từ việc bẻ các khớp ngón tay cho kêu rôm rốp có thể rất khác nhau tùy theo từng người. Có người thấy rất ‘đã,’ thậm chí là bị ghiền, cũng có người thấy khó chịu hoặc sợ hãi. Dù việc bẻ khớp thường được nhiều người coi là một thói quen không tốt, nhưng nếu có thể hiểu được cơ chế hoạt động đằng sau việc bẻ khớp, ta sẽ hiểu tại sao lại có nhiều người ‘ghiền’ đến vậy.
Cael là một thiếu niên 15 tuổi bình thường – cho đến khi cậu được phát hiện có cột sống bị cong vẹo bất thường. “Em cảm thấy mình giống như Thằng Gù ở Nhà thờ Đức Bà vậy đó,” Cael nói với CBC News, nhớ lại quãng thời gian hai năm chờ đợi để được phẫu thuật cột sống, đầy cảm xúc và khốc liệt, và trong thời gian đó, đường cong cột sống của cậu đã phát triển lên tới 108 độ.
Vào những năm 1990, sau khi tốt nghiệp trung học ở Bồ Đào Nha, công việc đầu tiên của Ricardo Da Costa là vận động viên ba môn phối hợp (triathlete) chuyên nghiệp – bao gồm bơi lội, đạp xe, và điền kinh. Trong quá trình tham gia các cuộc thi, một trong những vấn đề lớn nhất mà anh và các vận động viên khác phải đối mặt là các vấn đề về tiêu hóa, nhưng không có ai để tâm hoặc tìm cách giải quyết vấn đề này.
Aspirin nổi tiếng với khả năng giảm đau từ các cơn đau cơ và đau đầu; giúp giảm sốt; và liều lượng thấp có thể làm loãng máu, giảm nguy cơ đông máu gây đột quỵ và đau tim. Tuy nhiên, một nghiên cứu mới phát hiện ra rằng Aspirin cũng có thể giúp ngăn chặn sự phát triển của ung thư ruột kết
Tháng 4 năm 2024, một phụ nữ ở Sacramento, California, Mỹ bị ngộ độc chì nghiêm trọng và tử vong sau khi sử dụng thuốc mỡ trị trĩ của Việt Nam có tên “Cao Bôi Trĩ Cây Thầu Dầu”. Thử nghiệm thuốc mỡ bôi trĩ này cho thấy nó chứa 4% chì (cứ 100 gram thuốc thì có 4 gram chì), đây là lượng rất nguy hiểm. Chì là một chất kim loại nặng độc hại cho cơ thể. Tiếp xúc với bất kỳ lượng chì nào cũng có thể gây hại cho sức khỏe.
Rụng tóc (alopecia) thường xảy ra trên da đầu, nhưng cũng có thể xảy ra ở bất kỳ nơi nào trên cơ thể. Rụng tóc là một tình trạng phổ biến và không phải là vấn đề đáng lo ngại. Ở Úc, khoảng một nửa đàn ông ở độ tuổi 50 thường có dấu hiệu hói đầu, và hơn 1/4 phụ nữ trong cùng độ tuổi cho biết tóc họ bị thưa đi. Thường thì vấn đề này là do di truyền. Nếu thấy mình đang bị rụng tóc và đang lo lắng về điều đó, quý vị nên đi khám hoặc hỏi ý kiến bác sĩ để được chẩn đoán trước khi thử bất kỳ phương pháp điều trị nào. Rất nhiều sản phẩm được quảng cáo là có khả năng đảo ngược tình trạng rụng tóc, nhưng lại có rất ít sản phẩm đã được kiểm nghiệm khoa học về hiệu quả.
Hàm răng của bệnh nhân có vẻ như được chăm sóc khá tốt, nhưng nha sĩ James Mancini, giám đốc lâm sàng của Trung Tâm Nha Khoa Meadville ở Pennsylvania, cảm thấy phần nướu có vấn đề. Tình cờ, Mancini có quen biết với bác sĩ của bệnh nhân đó nên đã liên lạc để chia sẻ sự lo ngại – và rồi họ ‘lần’ ra bệnh thật! Mancini cho biết: “Thực ra, Bob mắc bệnh ung thư bạch cầu (leukemia). Dù ông ấy không thấy mệt mỏi hay có các triệu chứng khác, nhưng vấn đề xuất hiện ở phần răng miệng. Khi bác sĩ của Bob biết được tình trạng, Bob đã được điều trị ngay lập tức.”
Thời nay, nhiều người thường bị đau cổ vai gáy, lại còn kèm theo cả đau đầu. Nỗi đau này có thể gây ra thêm nỗi đau khác, không chỉ về mặt vật lý mà còn về mặt tâm sinh lý. Xét về mặt sinh lý, ngày càng có nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những cơn đau ở cổ thường khiến cho người ta bị thêm chứng đau đầu. Một nghiên cứu mới được công bố trên tạp chí The Journal of Headache and Pain là nghiên cứu đầu tiên cung cấp những dấu hiệu khách quan về sự liên quan của cơ bắp với tình trạng đau nhức đầu.
Một nghiên cứu mới cho thấy thiếu ngủ không chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng và hiệu suất làm việc trong ngày, mà còn có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường loại 2. Theo nghiên cứu được công bố trên tạp chí JAMA Network Open, so với những người ngủ từ 7 đến 8 tiếng mỗi ngày, những người ngủ ít hơn 6 tiếng/ngày có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn khi về già.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.