Hôm nay,  

Chống Lạm Phát Tại Việt Nam

28/08/200700:00:00(Xem: 12520)

...lãi suất quá thấp, thuộc số âm trong thực tế, đã cản trở tiết kiệm và sẽ còn gây ra nguy cơ lạm phát...

Trong bảy tháng đầu năm vừa qua, chỉ số giá tiêu dùng tại Việt Nam đã tăng 7,55% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong các loại hàng tiêu thụ, thì chỉ số tăng giá đã lên cao nhất cho lương thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống, là mặt hàng cần yếu cho đa số người dân. Vì vậy, từ mấy tháng qua, chính quyền Việt Nam đã vất vả đối phó với nguy cơ lạm phát. Diễn đàn Kinh tế của đài RFA sẽ tìm hiểu về nỗ lực phòng chống nạn vật giá gia tăng tại Việt Nam, qua phần trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Nguyễn Khanh thực hiện sau đây.

Hỏi: Xin được chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Từ nhiều tháng nay, vật giá gia tăng đã là mối quan tâm của người dân ở tại Việt Nam vì làm cho sức mua của đồng bạc bị hao hụt. Tính từ hơn bốn năm nay thì nói chung đã bị soi mòn mất hơn một phần ba. Vì vậy, trong chương trình chuyên đề kỳ này, Ban Việt ngữ chúng tôi xin đề nghị là chúng ta cùng đề cập tới nạn giá cả gia tăng - hay là nạn lạm phát - và về cách quản lý kinh tế để ngăn ngừa lạm phát.

Câu hỏi trước tiên của chúng tôi, thưa ông, là vì sao lại có nạn lạm phát tại Việt Nam"

Tùy theo tầm nhìn xa hay gần, sâu hay nông mà ta có thể thấy ra nhiều nguyên nhân của lạm phát tại Việt Nam. Nhìn vào cơ cấu kinh tế thì lạm phát có nguyên do sâu xa nên đã và sẽ còn xảy ra. Nhìn vào cận cảnh ở bề mặt thì lạm phát xảy ra do nhiều biến cố như thiên tai dịch bệnh làm giảm số cung về lương thực thực phẩm, nhất là thịt; như giá cả nguyên nhiên vật liệu Việt Nam phải nhập khẩu cho nền kinh tế gia công của mình đã tăng vọt nên xứ này nhập khẩu luôn lạm phát ở đầu vào, làm gia tăng giá thành sản xuất.

Nhưng nóng bỏng nhất, lạm phát xảy ra vì tháng Năm vừa qua, Ngân hàng Nhà nước tại Việt Nam đã bơm ra một lượng tiền quá lớn là 112 ngàn tỷ đồng bạc để mua vào bảy tỷ Mỹ kim cho khối dự trữ ngoại tệ. Lượng tiền quá lớn được lưu thông đã lập tức thổi lên lạm phát, vốn là - theo định nghĩa - phát hành quá lạm số tiền tệ lưu hành so với số hàng hoá khả dụng. Đây là biểu hiện rất tệ của khả năng quản lý kinh tế theo một chủ trương vốn dĩ dễ gây ra lạm phát, là loại lý do cơ cấu sâu xa về cung cầu như tôi vừa trình bày.

Hỏi: Ông vừa nói về tình hình cung cầu, như vậy, liệu có thể cho rằng lạm phát bùng nổ vì số cầu, thể hiện ở đồng bạc lưu hành, đã vượt số cung là khối lượng hàng hoá được cung ứng cho thị trường hay không"

Thưa đúng như vậy, khi thiên tai dịch bệnh, như bệnh cúm gia cầm, dịch heo tai xanh đã đánh sụt lượng hàng khả dụng, và gây ảnh hưởng đến giá cả của tôm cá vì thiếu thịt thì phải ăn cá mà không đủ. Ngoài ra, phải nói đến một nguyên nhân khác trong vế cung là hệ thống phân phối và tồn kho quá thô thiển của Việt Nam nên không kịp đáp ứng những xoay chuyển của tình hình sản xuất, đánh bắt. Trong khi ấy, nạn độc quyền quá mạnh của một số doanh nghiệp nhà nước đã khiến các doanh nghiệp này lời lớn nhờ giá cả gia tăng, trong khi dân nghèo thì khổ lớn vì vật giá nhu yếu phẩm vẫn tăng.

Hỏi: Đó là về vế cung như ông nói, còn về mặt cầu thì sao"

Về mặt cầu thì việc bơm tiền mua lại bảy tỷ đô la ngoại tệ, tức là hơn 10% tổng sản lượng cả năm của cả nước, đi với khả năng thu hút lượng tiền dư dôi lại rất kém của ngân hàng vì lãi suất huy động quá thấp, mới khiến người ta không điều tiết nổi khối tiền tệ lưu hành và tiếp tục đẩy số cầu khi số cung đã giảm từ đầu năm nay.

Cho nên, ta không ngạc nhiên về nạn vật giá gia tăng, là điều đã thấy từ đầu năm, mà nên ngạc nhiên về khả năng ứng phó lụp chụp chắp vá của các cơ quan hữu trách, nhất là của Ngân hàng Nhà nước. Mà sở dĩ như vậy và đây là cái gốc của vấn đề, là vì định chế này phải thi hành những chính sách đầy nguy hiểm của lãnh đạo về chiến lược kinh tế.

Hỏi: Chúng ta sẽ đề cập tới chiến lược đó sau khi duyệt lại một số biện pháp ngăn chặn lạm phát đã được Việt Nam thi hành, là điều mà thính giả muốn nghe ông phân tích.

Vì trình độ quản lý vĩ mô hay toàn quốc rất kém nên không có sự phối hợp cần thiết của các cơ quan hữu trách khi phải tung ra biện pháp chặn đứng lạm phát từ đầu năm. Lý do quản lý vẫn kém sau hai chục năm đổi mới là vì quan niệm kinh tế thị trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cái định hướng ấy khiến chính quyền không dùng hay chưa thể dùng đòn bẩy của quy luật cung cầu hầu điều tiết khối tiền tệ lưu hành.

Thay vào đó là loại biện pháp hành chính, thể hiện rõ nhất ở việc kiểm soát giá cả. Ngay từ cách nói, ta đã thấy thể hiện tinh thần tai hại ấy. Thay vì nói về mục tiêu ổn định vật giá tức là quân bình cung cầu - về hàng hoá hay tiền tệ - giới hữu trách trong nước cứ nói đến "kiểm soát giá cả", vì chưa thoát khỏi quan niệm cũ là nhà nước kiểm soát tất cả.

Hỏi: Ông có thể đơn cử vài thí dụ về hiện tượng kiểm soát đó chăng"

Thí dụ cụ thể là cùng lúc với việc bơm tiền thu về bảy tỷ Mỹ kim thì hồi tháng Năm đã cho thả nổi giá xăng dầu, vì dầu khí nhập khẩu lên giá, thế rồi qua tháng Tám lại đòi các hãng cung cấp giảm giá xăng dầu để hạ bớt phí tổn sản xuất và vận chuyển hàng hoá. Một thí dụ khác là biện pháp giảm thuế nhập khẩu trên một số mặt hàng, như là xe hơi! Biện pháp thuế khoá ấy chậm có tác dụng - mà nếu có thì cũng chẳng hạ nhiệt cơn sốt giá cả. Mâu thuẫn ở đây là Việt Nam vẫn duy trì hiện tượng độc quyền nên đành điều tiết bằng quyết định hành chánh, vốn là loại quyết định vô hiệu trong thị trường. Chưa kể là giảm thuế sẽ giảm thu và gia tăng bội chi ngân sách, làm lạm phát càng dễ bùng nổ.

Hỏi: Ngoài biện pháp thuế khoá như giảm thuế nhập khẩu thì còn biện pháp nào khác"

Ngoài biện pháp thuế khoá thật ra chậm công hiệu và ít tác dụng vì chế độ kế toán còn thô sơ của các doanh nghiệp, người ta có đòn bẩy về tín dụng và tiền tệ. Nhưng lãi suất do các ngân hàng thương mại trả cho trương chủ ký thác tiết kiệm hiện vẫn ở số âm nếu so với giá cả và các cơ hội sinh lời khác. Mà ngân hàng thương mại cổ phần chẳng có lý do gì nâng lãi suất trả cho trương thủ để hút vào lượng tiền tệ lưu hành khi lãi suất hiện hành của họ vẫn còn cao hơn lãi suất của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh.

Vì vậy, các ngân hàng thương mại gọi là của tư nhân không muốn trả tiền lời tiết kiệm cao hơn và góp phần thu hút lượng tiền lưu hành ngoài thị trường, nhất là khi họ vừa phải nâng khối dự trữ pháp định theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Biện pháp cần thiết và cấp tốc là phải phát hành trái phiếu ngắn và dài hạn có lãi suất hấp dẫn hơn, và nếu cần thì nên bán ngay ra một số dự trữ ngoại tệ vừa phải để hút bớt tiền ra khỏi kinh tế.

Hỏi: Tuy nhiên, nếu bán dự trữ ngoại tệ ra thì có khiến tỷ giá đồng bạc Việt Nam lên giá hay không" Và điều ấy có đi ngược lại chiến lược phát triển xuất khẩu chăng"

Thưa ông vừa nói đến chiến lược phát triển xuất khẩu và đấy là vấn đề thuộc loại cơ cấu mà cũng là nguyên nhân tiềm ẩn sâu xa của lạm phát tại Việt Nam.

Nói vắn tắt thì Việt Nam theo chiến lược mở cửa nửa vời, chủ yếu là làm gia công cho thiên hạ bằng cách nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu cho dân mình chế biến trên thiết bị và công nghệ cũng nhập khẩu. Ăn lời nếu có là nhờ tiền lương thật ra cũng thấp hay nhờ hay bán nông khoáng sản ra ngoài. Chính là vì yêu cầu xuất khẩu như một ưu tiên, người ta mới bơm tiền mua Mỹ kim để gia tăng khối dự trữ ngoại tệ và giữ tỷ giá hối đoái thấp của đồng bạc hầu xuất khẩu cho rẻ, đâm ra thổi bùng lạm phát vào lúc nguy ngập.

Trong lúc ấy, nhập khẩu đã tăng về cả lượng và giá mà xuất khẩu lại không tăng cùng nhịp độ dù thị trường đã có ở đấy sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Hậu quả là mình bị nhập siêu nặng và trước mắt thì nhập khẩu luôn cả nạn lạm phát. Điều tai hại và bất công của chiến lược này là lạm phát chính là loại thuế mù quáng đánh trên mọi người tiêu thụ. Dân càng nghèo lại càng bị nặng khi nhu yếu phẩm tăng giá mà thu nhập của họ không tăng, là trường hợp phổ biến ở vùng quê. Các đại gia ở thành phố thì chẳng sợ gì vật giá vì họ có cách bù lại sự hao hụt giá trị của đồng tiền, nhất là khi họ giữ thế độc quyền và cưỡng chống được biện pháp kiểm soát giá cả của nhà nước.

Hỏi: Ông vừa trình bày ra một số gút mắc trong hiện tượng ông gọi là mầm lạm phát tiềm ẩn trong cơ cấu do chiến lược kinh tế của Việt Nam. Hậu quả của tình trạng đó là gì"

Hậu quả là một sự lệch lạc mà ít ai muốn nói đến hay nhìn ra vì vẫn còn hồ hởi với viễn ảnh hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Lệch lạc vì chế độ kiểm soát giá cả vẫn còn áp dụng trong thực tế. Chế độ kiểm soát ngoại hối hay hối đoái và định giá hối suất đồng bạc quá thấp là một lệch lạc khác. Lệch lạc thứ ba là lãi suất quá thấp, thuộc số âm trong thực tế, đã cản trở tiết kiệm và sẽ còn gây ra nguy cơ lạm phát. Người ta không muốn nhìn ra những lệch lạc này và cứ nói đến triển vọng đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng, hay hàng hoá Việt Nam sẽ chiếm lĩnh nhiều thị trường mới. Tám tháng sau khi được bước ra ngoài làm ăn thì cơ cấu lệch lạc của Việt Nam khiến ta nhập khẩu lạm phát mà xuất khẩu không tăng mạnh. Tỷ giá đồng bạc có rẻ thì chưa đẩy mạnh xuất khẩu đã gây phí tổn nhập khẩu cao hơn.

Bây giờ khi phải lụp chụp chống đỡ lạm phát và kiểm soát giá cả không xong, mà khí cụ điều tiết tiền tệ không đủ tinh vi, người ta bèn áp dụng biện pháp thuế khoá và sẽ bội chi ngân sách cao hơn - một nguyên do khác của lạm phát - đi cùng khiếm hụt ngoại thương vì nhập nhiều hơn xuất.

Hỏi: Câu hỏi cuối, thưa ông, theo quan điểm của ông, Việt Nam nên làm gì để kiểm soát được đà gia tăng vật giá trong lâu dài"

Gần thì nên quan niệm lại vai trò của Ngân hàng Nhà nước, vốn chưa có khả năng điều tiết tiền tệ và tín dụng độc lập lại còn phải thi hành những chính sách tai hại của nhà nước. Đồng thời, nên đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách ngân hàng để hệ thống ngân hàng có thể huy động tiết kiệm và phân phối tín dụng hữu hiệu hơn. Hai việc ấy chưa lập tức giải trừ được lạm phát nhưng sẽ xây dựng ra một cơ cấu tài chính ngân hàng lành mạnh hơn để có khả năng tài trợ việc phát triển trong sự ổn định của giá cả.

Song song cùng việc cải thiện hệ thống ngân hàng và nhất là phá vỡ thế lực quá mạnh của bốn ngân hàng thương mại quốc doanh khiến các ngân hàng thương mại cổ phần không có cơ hội bành trướng thì nên cải thiện chế độ phân phối bằng cách phá vỡ thế độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước. Chỉ có cạnh tranh mới cải thiện được phân phối và giúp hàng hoá lưu thông dễ dàng vào chỗ khan hiếm.

Về lâu dài thì nên quan niệm lại chiến lược phát triển để thoát dần tình trạng làm gia công cho thiên hạ vì xuất khẩu chưa tăng thì kinh tế đã bị lệ thuộc quá nặng vào nhập khẩu và thường xuyên bị giao động của giá cả quốc tế đánh thẳng vào túi tiền người dân. Chiến lược ấy gây bất công, đào sâu khoảng cách giàu nghèo mà hệ thống quản lý vĩ mô quá thô thiển không ứng phó được khi vật giá gia tăng vì bất cứ một nguyên nhân nào.

Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa và mong là sẽ gặp ông trong chương trình kỳ tới.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.