Hôm nay,  

Mấy Kỷ Niệm Dễ Thương Tại Geneva, Thụy Sĩ

20/11/200900:00:00(Xem: 6651)

Mấy Kỷ Niệm Dễ Thương Tại  Geneva, Thụy Sĩ

Đoàn Thanh Liêm 
Tôi có hai lần đến thăm viếng và làm việc ở thành phố Geneva, Thụy sĩ vào năm 1970 và 1972. Lần đầu tiên, tôi được anh bạn Đặng Tiến chở xe hơi từ Pháp qua thăm viếng bạn bè ở thành phố này trong một tuần lễ vào cuối năm 1970. Lần thứ hai là vào đầu năm 1972, tôi đi máy bay từ Saigon đến thẳng Geneva để làm việc với World Council of Churches (WCC =Hội đồng Tôn giáo Thế giới) trong khoảng một tháng. Cả hai lần, tôi đều gặp gỡ nhiều bà con, bạn hữu người Việt cũng như người ngoại quốc. Và hai chuyến đi này đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm dễ thương khó mà quên được.
Nay rảnh rỗi mà nhớ lại cái thời trai trẻ còn hăng say với công việc về văn hóa xã hội tại mấy thành phố ở Âu châu vào thập niên 1970, tôi xin ghi lại mấy kỷ niệm ngộ nghĩnh đó để chia sẻ với bà con đọc cho vui vậy nhé. Đầu tiên là tại thành phố Geneva, Thụy sĩ.
1/Vào thời đó tại Geneva có rất ít người Việt, chỉ có một số sinh viên du học và vài ba viên chức ngoại giao làm việc tại văn phòng liên lạc với Liên hiệp quốc. Đặng Tiến và tôi cư ngụ tại nhà anh chị Tôn Thất Duyệt – Hương ngay tại khu downtown. Tôi thật tình cờ được gặp lại anh Nguyễn Hữu Trụ là bạn cùng học tại trường Luật Saigon hồi giữa thập niên 1950. Trụ vừa bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật tại đại học Geneva và đang đợi được bổ nhiệm làm giảng viên tại một trường đại học trong vùng. (Năm 1972, tôi qua lại Geneva, thì gặp đúng lúc Trụ làm đám cưới với một cô y tá người  Thụy sĩ, và tôi là người bạn duy nhất từ Việt nam qua tham dự trong bữa tiệc cưới tại đây). Trụ cũng cho tôi nguyên văn bản luận án được nhà xuất bản đại học trình bày rất gọn gàng đẹp đẽ, nhan đề là : “La succession d’état au Vietnam après la dissolution du régime colonial francais”.
Cũng vào dịp cuối năm 1970 này, các bạn Tiến và Duyệt còn chở tôi tới đại học Fribourg để tôi viếng thăm anh bạn người Balan tôi không còn nhớ rõ tên, mà là phu quân của chị Trần Thị Lài, ái nữ của cụ Trần Văn Lý, nguyên Thủ hiến Trung Việt thời chánh phủ Bảo Đại. Anh bạn này làm Tổng thư ký Pax Romana (Phong trào Quốc tế Trí thức Công giáo MIIC), nhưng rất tiếc là vì sát với dịp lễ Noel, nên anh bạn đã về quê ở Balan. Thành ra tôi đã không được gặp anh, như chị Lài đã dặn tôi khi chị về Saigon dịp đáng tang cuả cụ thân sinh cuả chị vào giưã năm 1970. Fribourg cũng như Lausanne là khu vực nói tiếng Pháp gọi là Suisse Romande, để phân biệt với khu vực nói tiếng Đức gọi là Suisse Allemanique như ở thành phố Zurich.
Tôi cũng đến thăm mục sư Graeme Jackson, người Anh làm việc với WCC. Chúng tôi quen nhau vào năm 1969 khi ông đến thăm Việt nam. Ông bà mời tôi tới nhà dùng cơm, đặc biệt bà đãi tôi cái món “fromage fondu”, tức là trộn mấy thứ pho mát nấu chung với rượu vang cho chảy hết ra trong một cái nồi sôi sục, và dùng chiếc xiên có quấn bánh mì để chấm vào fromage nóng chảy, rồi đợi một chút cho nguội bớt mà ăn. Bà mục sư giải thích cho tôi đây là món ăn lâu đời trong các làng quê ở Thụy sĩ, gặp lúc trời đổ tuyết nhiều không đi lại được, có khi cả tuần lễ liền, thì người ta mới chế ra cái món này để nấu cho gia đình ăn. Dĩ nhiên là tôi cũng đến thăm trụ sở của WCC ở khu ngoại ô Geneva, trên đường nổi danh là Route de Ferney, mà hồi xưa văn hào Voltaire đã tới cư ngụ một thời gian dài. Nhân tiện, cũng xin ghi thêm Geneva là nơi giảng đạo của một trong các nhà sáng lập phong trào cải cách Thiên chúa giáo vào hồi thế kỷ XVI (Reformation), đó là Jean Calvin. Nên thành phố vẫn còn giữ được nguyên vẹn căn nhà xưa của Calvin để làm viện bảo tàng. Còn về văn hào Jean Jacques Rousseau, một công dân nổi danh của Geneva, thì có một bức tượng khá đẹp được đặt trên hòn đảo nhỏ trong hồ Geneva, mệnh danh là “Ile de Rousseau”.
Quả thật Geneva không những là một thành phố quốc tế với cả mấy ngàn tổ chức ngoại quốc, kể cả các tổ chức của Liên hiệp quốc, mà còn chứa đựng rất nhiều di tích văn hóa lịch sử của Âu châu. Nhất là nước Thụy sĩ suốt mấy trăm năm nay đã tránh được cảnh chiến tranh tàn phá, nhờ vào sự khôn khéo giũ được tính cách trung lập trong vùng này. 
Dĩ nhiên là Geneva còn có một địa danh rất nổi tiếng khác, đó là hồ Leman, mà hồi năm 1954, ông Võ Thành Minh đã căng lều thổi sáo não nùng bao nhiêu ngày đêm bên cạnh bờ hồ, để phản đối việc quốc tế ra quyết định chia cắt nước Việt nam thành 2 phần qua “Hiệp định Geneva 1954”. Hồ này rộng lớn như một cái biển, giáp ranh đến cả nước Pháp nữa. Đặc biệt giữa hồ còn có một cột phun nước cao đến cả hàng trăm thước, khách du lịch coi thấy thật là lạ mắt và sinh động; mà gặp bữa trời có gió mạnh, thì nước bị thổi bay tới cả mấy con đường ven hồ nữa. 
2/ Năm 1972, tôi nhận cộng tác với WCC trong cương vị là Giám đốc Văn phòng nghiên cứu và Liên lạc tại Saigon (Saigon WCC Research and Liaison Office). Do vậy mà tôi được mời sang làm việc, trao đổi với các cơ quan thuộc WCC tại Geneva đến cả một tháng trời. Người bạn Việt nam mà làm việc với WCC tại Geneva là anh Nguyễn Tăng Cảnh, vốn là một sinh viên du học tại Thụy sĩ đã từ lâu. Anh Cảnh sắp xếp chương trình làm việc cho tôi ở đây rất chu đáo, cụ thể là giới thiệu cho tôi đến gặp gỡ trao đổi với các viên chức trong ban lãnh đạo các cơ sở chuyên trách thuộc hệ thống WCC. Nhờ vậy mà tôi có dịp thấu hiểu tường tận hơn về đường lối hoạt động của WCC, để từ đó mà đề ra chương trình làm việc riêng của văn phòng ở Saigon sao cho thích hợp với chủ trương đường lối của WCC liên hệ đến Việt nam. Chi tiết về chuyện này khá dài dòng và có tính cách chuyên môn về sinh hoạt tôn giáo, tôi sẽ xin viết vào một dịp khác.


Vì lần này, tôi ở lại Geneva đến cả một tháng, nên có dịp gặp gỡ nhiều bạn hữu một cách rất tình cờ với nhiều câu chuyện ngộ nghĩnh. Trước hết là chị Catherine Schenker người Thuỵ sĩ, mà cũng lại ở Geneva. Tôi gặp và quen biết với chị trong chuyến bay từ Bangkok đến Cairo. Chị đi cùng đoàn ký giả đài truyền hình Âu châu (Eurovision) để làm phóng sự về Thế vận hội muà Đông được tổ chức tại Sapporo Nhật bản, và nay đang trên đường trở lại Âu châu. Sau khi đến Geneva ít lâu, thì Catherine cùng bà mẹ đến đón tôi về nhà chơi ăn cơm vào một buổi tối. Bà cụ nấu ăn rất ngon và cả hai mẹ con đều tiếp đãi tôi rất thân tình, lịch sự. Cụ khen là tổ chức WCC mà tôi cộng tác, thì rất tiến bộ đàng hoàng. Tôi có hỏi thăm về ông cụ, thì bà cho biết là ông đang phải làm việc bên London, Anh quốc. Thật là một gia đình hạnh phúc, ấm cúng.
Vào muà hè năm 1972 đó, ở Saigon tôi lại nhận được một tấm thiệp cuả Catherine gửi đi từ Munich, Đức quốc. Chị mô tả vụ quân cảm tử Palestine vaò giưã đêm đã đột nhập vào khu vực cư ngụ cuả các lực sĩ Do Thái và gây ra cảnh giết chóc kinh hoàng tại làng Thế vận hội ở Munich. Chị viết: Tôi vưà phải chứng kiến cuộc khủng bố. “Quelle horreur!” (Thật là hãi hùng!)
Một chị bạn khác là Eva trong nhóm nữ tu công giáo  “Nữ Trợ tá Quốc tế” (AFI = Auxiliaires Feminines Internationales). Eva dẫn tôi đến ăn trưa với một nhóm thanh niên trẻ cỡ trên dưới 30 tuổi. Có người là linh mục công giáo tại một xứ đạo Pháp sát với biên giới Thuỵ sĩ. Để làm kế sinh nhai, ông làm tài xế xe vận tải cho một hãng chuyên buôn bán nông phẩm. Mỗi buổi sáng, ông lái xe chở hàng rau tươi, thịt v.v... sang Geneva. Rồi buổi chiều mới về lại xứ đạo để làm lễ. Có người là sinh viên từ bên Italia qua học ở đây, nhưng lại tự nguyện dấn thân vào việc bênh đỡ các công nhân ngoại quốc đến làm việc tại Thuỵ sĩ, gọi là “migrant workers”. Họ cùng Eva và một vài bạn khác hơp lại để ăn bưã trưa chung với nhau, và trao đổi về các vấn đề xã hội cấp bách cần phải giải quyết tại điạ phương. Gặp tôi mới từ Việt nam tới, thì họ cũng tò mò hỏi tôi về tình hình cuộc chiến tại Việt nam liệu có triển vọng chấm dứt ra sao. Tôi nói là vào  năm 1972 này, thì viễn ảnh hoà bình đối với dân Việt nam chúng tôi vẫn còn xa vời lắm. Đaị khái nhóm này là một hình thức gặp gỡ cuả những người trẻ có sự quan tâm đến vấn đề xã hội trong môi trường xung quanh mình, mà tôi thấy họ thật tâm muốn đóng góp cụ thể vào vấn đề cải thiện nếp sinh hoạt cuả cộng đồng điạ phương nơi thành phố Geneva này. Là một khách mời, tôi tế nhị để tâm theo dõi quan sát nhiều hơn là tham gia thảo luận với họ.
Có một buổi chiều anh David Gill, người gốc ở New Zealand mà làm việc với WCC, anh lấy xe chở tôi lên núi chơi. Chạy loanh quanh cả một giờ đồng hồ theo đường thoai thoải lên dốc, rồi David ngừng xe bên một bờ hồ gần đỉnh nuí và mời tôi uống bia tại một quán lộ thiên ven hồ. Phong cảnh vào muà xuân nơi đây thật đẹp đẽ và êm ả lạ thường. David chỉ cho tôi coi một khúc tường dài cả trăm mét, cao đến 3 mét dọc theo sườn núi và nói đó là một mảnh còn lại cuả bức trường thành mà quân đội La mã xây dựng dọc theo biên giới khắp Âu châu cách nay cũng đến gần 20 thế kỷ, để bảo vệ cho cái đế quốc cuả họ. Sát liền với bức tường còn có cả một con lộ lát toàn bằng đá đủ rộng cho xe ngưạ có thể di chuyển được. Đó quả là một công trình vĩ đại, nó làm tốn phí không biết bao nhiêu là tiền bạc và công sức cuả người La mã, cũng như cuả người dân trong các xứ bị họ xâm lăng chiếm giũ. Nhưng rút cục, bức trường thành này cũng đã chẳng bảo vệ được cho đế quốc La mã khỏi sụp đổ vào thế kỷ thứ tư sau công nguyên! Tôi bèn nảy ra ý nghĩ riêng, mà không nói với David : “ So với bức trường thành này, thì bức tường Berlin mà người cộng sản xây lên bên nước Đức vào năm 1961, nào có thấm vào đâu " “
Ngoài ra còn một chuyện tức cười khác, nó chứng tỏ sự quê kệch cuả tôi. Đó là anh Nguyễn Tăng Cảnh và tôi được ông bà mục sư Mottu ở Geneva mời đến nhà dùng cơm tối. Chẳng là ông bà sắp sưả qua Saigon để coi sóc nhà thờ tin lành cuả người nói tiếng Pháp toạ lạc trên đường Thống nhất (Eglise Reformee de langue francaise). Cảnh lấy xe chở tôi đi. Dọc đường tôi đề nghị anh cho tôi mua một ít hoa tặng bà mục sư. Đến nhà ga xe lưả, Cảnh ngừng xe để cho tôi vào đó mua hoa. Tôi chọn mua một lẵng hoa đẹp nhất, và người bán hoa lại khen rằng bó hoa này sẽ làm đẹp lòng người yêu cuả bạn đó (votre bien aimée). Khi tới nhà gia chủ, tôi đã đem tặng cho bà Mottu. Bà vui vẻ cảm ơn. Và chúng tôi được mời vào trong nhà dùng cơm và chuyện trò thật vui vẻ, thân tình với hai ông bà đã vào tuổi trên 50.
Sau vài giờ, chủ nhà tiễn chúng tôi ra về. Trên đường về nhà, Cảnh nói với tôi : “Ông có để ý không, lúc ông tặng hoa cho bà Mottu, thì mặt bà ấy đỏ hẳn lên. Vì hoa ông tặng là loại hoa hồng, mà theo phong tục người phương Tây, thì loại hoa đó chỉ để tặng cho người yêu mà thôi!“ Tôi thật chưng hửng, nhất là khi nhớ lại lời khen cuả người bán hoa tôi vưà mua tại nhà ga khi nãy. Rõ ràng tôi là một thằng nhà quê hết chỗ nói. Ở Saigon, chẳng gì mình đã là một vị luật sư đã từng đi ngoại quốc nhiều lần. Ấy thế mà lần này vô ý để mắc phải cái chuyện đáng chê trách như thế đó! Âu cũng là một bài học để đời cho mình vậy./
California, Tháng 11 Năm 2009
Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.