Hôm nay,  

Chuyện hai mùa mưa

16/05/201100:00:00(Xem: 7754)

Chuyện hai mùa mưa

Phan Kiến Quốc

(LTS: Tác giả Phan Kiến Quốc bây giờ chính là tù nhân lương tâm Phạm Minh Hoàng. Xin trân trọng gửi đến độc giả bài viết vào tháng 10/2002 của nhà hoạt động dân chủ này.)

Mưa xứ người

Trung tuần tháng 8 vừa qua, thế giới đều rúng động trước hàng loạt các thiên tai làm hàng ngàn người thiệt mạng, trên hai triệu người phải lâm vào cảnh màn trời chiếu đất và làm thiệt hại gần 3 tỉ đô la.

Tại Cộng Hòa Tiệp, các trận mưa lũ đã làm sông Vlatava dâng cao chưa từng thấy từ hơn một thế kỷ nay. Lưu lượng đã có lúc đạt đến 4500m3/giây nghĩa là lớn gấp 30 lần lưu lượng bình thường và sông dâng cao 10cm mỗi 15 phút, nhận chìm thủ đô Praha, làm thiệt hại trầm trọng nền kinh tế nước này.

Tại Áo, các trận mưa và lụt đã ngập tràn thủ đô Vienne. Cầu đường bị sạt lở, các nhà máy biến điện bị nổ tung, nhà thương, trường học biến thành biển nước... Chính phủ Thomas Klestil tuyên bố đây là trận lụt kinh hoàng nhất từ một thế kỷ nay.

Tại Đức, hầu như cả miền Nam đều bị ngập lụt, nặng nhất là các bang Baviere và Saxe. Sông Elbe và Danube dâng cao gấp 5 lần, gây thiệt hại nặng nề cho các di tích lịch sử và cho nền kinh tế Đức. Thủ tướng Schroder ước tính con số này có thể vượt quá 2 tỉ đô la.

Tuy nhiên tại Nam Á và đặc biệt là tại Trung Quốc, tình hình mới được coi là nghiêm trọng nhất. Dương Tử giang đã dâng cao tại hồ Động Đình và trong địa phận tỉnh Hồ Nam đe dọa đến đời sống của hơn 20 triệu người. 600 ngàn người bị di tản.

Riêng tại Việt Nam, lũ quét dữ dội ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Cho đến trung tuần tháng 9/2002, đã có khoảng 20 người chết, hàng chục ngàn căn nhà bị cuốn trôi.

Qua các biến cố này, con người đang đặt cho mình những câu hỏi về nguyên nhân của các trận thiên tai này và tìm cách dự đoán hoặc giảm thiểu tầm tác hại của chúng. Nói đúng ra, sự quan tâm này đã có từ lâu nhưng sự bùng nổ dân số đi đôi với tình trạng công nghiệp hóa đã khiến mọi người thực sự lo lắng và bắt đầu nói về tương lai của trái đất. Hai vấn đề chính hay nói đúng ra là hai tác hại chính là tầng ozone, sự nóng dần lên của trái đất và hiệu ứng lồng kính.

Ozone (công thức hóa học là O3), là một loại khí thiên nhiên hiện hữu ở hạ tầng khí quyển và ở cao độ 35-45km. Khí này có tác dụng ngăn cản các tia cực tím của mặt trời gây ung thư da. Vào năm 1994, các nhà khoa học khám phá ra rằng tầng ozone này đang bị "lủng lỗ" ở một vài nơi, nhất là ở Nam cực, và tác nhân chính là các khí chlorofluorocarbures (CFC) dùng trong các ống xịt. May mắn làm sao, con người đã tìm ra một chất thay thế khí CFC và cứu thoát tầng ozone.

Riêng về tình trạng nóng dần lên của trái đất đến từ sự phát triển tăng tốc của kỹ nghệ. Khí thải từ các nhà máy và các sinh hoạt của con người bay lên không và tạo thành một tấm màn phản chiếu các tia hồng ngoại đến từ mặt đất và nó có tác dụng "ủ" kín trái đất vì thế người ta thường nói tình trạng nóng dần này đi đôi với hiệu ứng lồng kính. Vào thế kỷ trước, nhiệt độ đã tăng lên 0,5 độ, và người ta dự tính với đà tăng trưởng dân số và công nghiệp như hiện nay, nhiệt độ sẽ tăng lên 3 độ trong thế kỷ sắp đến.

Mưa xứ ta

Xét riêng trường hợp Việt Nam, lũ lụt cũng như hạn hán trong những năm gần đây đã thường xuyên gây nhiều thiệt hại về nhân mạng lẫn tài sản cho người dân, và "thủ phạm" đã được nêu đích danh: tình trạng phá rừng.

Rừng từ ngàn xưa vẫn được coi như lá phổi của loài người, nó có tác dụng hút khí carbonic CO2 và thải ra dưỡng khí. Tuy nhiên, rừng còn giữ một vai trò rất quan trọng trong chu trình điều hòa lượng nước trên trái đất. Khi mưa xuống, một phần lớn nước lập tức bay hơi (70%), phần còn lại thấm xuống đất hoặc chảy trên mặt đất thành sông, suối. Phần thấm xuống đất rất quan trọng vì nó tiếp tế cho các mạch nước ngầm và nhất là nuôi dưỡng cây cối. Nếu không có rừng, lượng nước thấm xuống đất ít đi và ngược lại lượng nước sông suối dâng cao. Người ta thường nói rừng giữ nước là vì thế. Ở Việt Nam là nước nhiệt đới, vai trò giữ nước còn quan trọng hơn các nước ôn đới vì khả năng giữ nước của rừng nhiệt đới lớn hơn rất nhiều. Thiên nhiên đã tạo ra rừng nhiệt đới như để giữ nước sau những trận mưa lớn mà chúng ta thường xuyên thấy ở Việt Nam. Lượng mưa trung bình ở nước ta khoảng 250mm/tháng trong mùa mưa (từ tháng năm đến tháng 11), nghĩa là gấp 6, 7 lần các nước trong vùng ôn đới. Và dĩ nhiên tai hại sẽ nhiều lần hơn khi chúng ta không còn rừng.

Ngày 30/8/2002, khi lũ lụt đang hoành hành tại Âu châu, Trung Quốc, tại Tây Bắc và Tây nguyên Việt Nam, báo Tuổi Trẻ đã ước tính là hiện nay độ phủ rừng ở Việt Nam vào khoảng 28% (8 triệu hecta) so với 44% vào năm 1944. Từ hơn chục năm nay, cả nước đã báo động về tình trạng phá rừng không thương tiếc, nhưng cho đến ngày hôm nay, sau nhiều chiến dịch, sau nhiều nghị định, rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá từ Bắc chí Nam. Diện tích rừng trồng luôn luôn nhỏ hơn rừng bị mất. Tình trạng lũ lụt sẽ vẫn còn tiếp diễn chưa kể đến tai họa về môi sinh khác (diệt chủng các loài động vật, lở đất,...) ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân.

* * *

Tuy nhiên, khi nhìn thấy thành phố Salzbourg ở Áo bị dòng Danube cắt thành hai mảnh hoặc khi nghe tiếng còi báo động ở thủ đô Tiệp khởi đầu việc di dân, người ta không thể tự hỏi: tại sao các nước Tây Âu, nơi mà môi sinh được bảo vệ, cũng không thoát khỏi thiên tai" và việc bảo vệ rừng ở Việt Nam có cần thiết nữa không"

Đúng là con người hoàn toàn bất lực trước các "cơn thịnh nộ của thiên nhiên" như lụt lội, động đất, núi lửa, bão tuyết... Gần đây nhất chúng ta đã chứng kiến một nước giàu mạnh như Hoa Kỳ cũng bó tay trước những trận cháy rừng ở tiểu bang California hoặc một nước rất quan tâm đến thiên tai như Pháp cũng "xấc bấc xang bang" trước những giòng bùn (Nimes, 1989), trong đó "xe hơi bị lật như bát úp", đó là chưa kể đến những thiên tai như trận lụt lịch sử năm 1954 tại Trung Quốc khi dòng Dương Tử Giang nhận chìm 350.000 nhân mạng hoặc trận động đất kinh thiên động địa tại Kobe, Nhật Bản đã làm "giãn" nhịp chính của cầu Ashahi Kaikyo ra thêm 1 thước và làm hàng trăm ngàn người sống trong cảnh màn trời chiếu đất.

Trước thiên nhiên, quả thực con người quá nhỏ bé và hầu như các biện pháp phòng chống, ngăn ngừa đều vô nghĩa lý. Tuy nhiên xét cho cùng, ngoài những thiên tai ngoài sức tưởng tượng như sao chổi Schumacher-Levy "bang" vào trái đất hay núi lửa Pinnatubo phun khói suốt mấy tháng trời chứ ngày hôm nay các tiến bộ khoa học cũng đã tiên đoán hoặc ít ra cũng giới hạn phần lớn các vụ thiên tai này. Trong các trận lụt vừa qua, nếu không có các phương tiện cứu hộ chắc chắn số thiệt hại về người và của sẽ còn tăng lên gấp bội. Tại Praha, thủ đô Tiệp trận lụt vừa qua chỉ có khoảng 10 người chết trong khi cường độ xem ra còn lớn hơn trận lụt lịch sử năm 1890. Tại Salzbourg (Áo) và Dresden (Đức) cũng thế. Riêng tại Trung Quốc, khó có thể so sánh trận lụt năm nay với hồi năm 1954. Nhưng nếu không có các phương tiện cứu hộ thì chắc chắn không chỉ có 20 nạn nhân khi Dương Tử giang đã cuốn trôi 30.000 căn nhà và đe dọa tính mạng của 20 triệu người quanh hồ Động Đình và tỉnh Hồ Nam.

Tiến bộ khoa học và các biện pháp phòng chống dài cũng như ngắn hạn chắc chắn đã giúp con người tiên đoán và giảm thiểu phần nào các tai họa. Riêng ở Việt Nam, điều này vẫn chưa được thực hiện đúng đắn.

Trước tiên là vấn đề phá rừng. Phải nói 10 năm trở lại đây không ngày nào báo chí lại không ta thán về vấn nạn này, nhà nước cũng ra nhiều chính sách, nghị định khuyến khích và hỗ trợ nông dân trồng rừng cũng như có những biện pháp cứng rắn đối với lâm tặc, nhưng vẫn không có hiệu quả. Các phóng sự đều cho thấy các khu rừng nguyên sinh, nơi có nhiều cây to và quý tiếp tục bị tàn sát và dấu vết còn lại không khác gì sau một trận bom. Những bài báo mang tựa rất thê lương như: Đà Lạt: Lời cầu khẩn của rừng, Hà Tĩnh: coi chừng không còn rừng, Phú Yên: 10 năm mất nửa diện tích rừng, Gia Lai: Kiểm lâm thua lâm tặc... đã nói lên sự bất lực của chính quyền đối với tình trạng phá rừng tràn lan trên khắp đất nước. Dĩ nhiên không phải tái lập lại tỷ lệ 40% diện tích rừng là chúng ta thoát cảnh hạn hán hoặc ngập lụt, nhưng đối phó với thiên nhiên, chúng ta chỉ mong giới hạn được phần nào thiệt hại có thể xảy ra.

Vào tháng 4/2002, có xảy ra một trận cháy rừng lớn tại U Minh Thượng và U Minh Hạ. 4000 hecta rừng bị đốt cháy. Nếu so sánh với trận cháy rừng ở Nam Dương năm 2000 thì thiệt hại của ta rất nhỏ nhưng chính vì cái "nhỏ" đó mới thấy sự yếu kém của chính quyền. Trong khi đi thị sát, ông Phan Văn Khải có phán:"Trong chiến tranh rừng có cháy, hàng năm đến mùa khô rừng vẫn cháy nhưng vẫn chữa được, tại sao năm nay lại cháy lan rộng"". Câu trả lời lại là sự cẩu thả của con người. Chặt cây, bắt cá, ăn ong, phá lấp các kênh đào. Đến lúc không còn kiểm soát được đám cháy mới động viên dân chúng nhưng lại hoàn toàn thiếu các dụng cụ chữa cháy. Bà con chỉ dùng sô và cành cây để chống trả với thần hỏa. Một lãnh đạo ngành canh nông nhìn rồi than:"điệu này chỉ còn cách trông vào... Trời". Sợ quá hóa sảng, người cộng sản thuần thành phải cầu các bác Mác, bác Lê chứ sao lại trông vào đấng thiêng liêng. Nhưng kể cũng linh, sau đó Trời có đổ mưa thật. Hú vía.

Trận cháy rừng U Minh vừa qua lại tỏ ra một thiếu sót của chính quyền trong việc kiểm soát sự khai thác các khu rừng tràm ven biển - và đó cũng là một trong những nguyên nhân gây ra các vụ lụt trong đồng bằng sông Cửu Long gần đây. Theo một bài đăng trên báo Sàigòn Giải Phóng, trong khoảng 10 năm trở lại đây, việc phá rừng tràm, rừng đước và phá rừng để nuôi tôm ven biển đã hủy hoại một lượng lớn diện tích rừng ngập mặn làm ảnh hưởng đến sinh thái trong vùng. Mặt khác, sự canh tác thiếu kiểm soát làm tắc nghẽn của các con kênh, đảo lộn quy hoạch tự nhiên của dòng chảy khiến cho đỉnh lũ cứ mỗi năm một cao, thời gian ngập lụt kéo dài và diện tích ngập lụt càng lớn, gây thiệt hại nhân mạng và tài sản cho nông dân.

Một khía cạnh kỹ thuật khác cũng ảnh hưởng đến tình trạng lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long là việc khai thác các đập thủy điện trên con sông này cũng như các công trình thoát lũ được nhà nước Việt Nam xây dựng từ giữa thập niên 80. Theo kỹ sư Nguyễn Minh Quang, một chuyên gia về sông Mekong đã từng phục vụ trong Ủy Ban Quốc Gia Thủy Lợi, thì các con kinh thủy lợi đào xuyên qua Đồng Tháp Mười và dự án thoát lũ ra biển Tây (vịnh Thái Lan) có hiệu quả rất thấp nếu không muốn nói là hiệu quả ngược đã làm tình trạng ngập lụt ở đồng bằng sông Cửu Long thêm trầm trọng hơn.

Cũng theo một nghiên cứu khác, thì việc khai thác các đập thủy điện trên con sông này cũng tác hại không kém. Sông Cửu Long dài 4200km, chảy qua 7 nước trước khi đổ ra biển Đông và bồi đắp cho đồng bằng 300 triệu tấn phù sa mỗi năm. Gần đây Thái Lan, Lào và nhất là Trung Quốc đã cho xây nhiều đập thủy điện trên thượng nguồn để phục vụ nhu cầu năng lượng và cũng để điều hòa lưu lượng. Tuy nhiên việc này đã ngăn cản phù sa bồi đắp khu cửa biển khiến nước mặn có điều kiện xâm thực, làm biến mất các khu rừng ngập mặn ven biển, đồng thời việc mất phù sa cũng làm quá trình sụt lún trong các vùng trũng của đồng bằng gia tăng, và hậu quả tức khắc là ngập lụt cho dù mực nước chưa cao.

Theo các Công Ước Quốc Tế về sông, thì 7 nước mà sông Mekong chảy qua đều là những "sở hữu chủ" của dòng sông này. Chính vì thế mà hai cây cầu Mỹ Thuận và Cần Thơ phải có độ cao đủ để các tàu lớn đi qua để ra biển, nhưng ngược lại các nước trên thượng nguồn cũng phải tôn trọng không để thiệt hại cho nước ta. Điều này chính quyền Việt Nam đã thiếu cương quyết trong ứng xử đối với các nước thượng nguồn, gây thiệt hại không ít cho vựa lúa của cả nước. Các nước trên thượng nguồn thì chỉ có Trung Quốc là đáng nói với một chuỗi 7 đập thủy điện trong đó có hai đập lớn là Manwan và Dashaoshan nằm trong tỉnh Vân Nam. Sau khi hoàn tất, chuỗi đập này có khả năng giữ lại 20% lượng nước và 30% lượng phù sa, ngược lại có thể đổ hàng trăm ngàn chất thải kỹ nghệ xuống hạ nguồn. Giữ lại 20% lượng nước là một điều tốt khi úng lụt. Nhưng chẳng may nếu vỡ đập hoặc có hiềm khích, Trung Quốc chỉ việc mở cái rô-bi-nê này giữa mùa mưa thì cả cái đồng bằng Cửu Long sẽ thành tôm cá hết.

Nhà nước Việt Nam hẳn biết chuyện này nhưng vì thế chính trị chắc hẳn không cho phép nói chuyện tay đôi với anh hàng xóm khổng lồ. Điều này có lẽ chẳng làm ai ngạc nhiên khi ngay cả lãnh thổ và lãnh hải bị hớt ngang mà cả đầu đảng chẳng ai dám hó hé, huống hồ gì dám yêu sách trên những chuyện xảy ra trong lãnh thổ người ta.

***

Tuyên ngôn sông Mekong năm 1999 đã lên tiếng cảnh giác các nước Mekong về nguy cơ sẽ đến cho lưu vực và là tiếng chuông báo động cho các cơn hạn hán và lũ lụt ngày càng dữ dội. Phát triển là điều cần thiết nhưng phát triển phải là một tiến trình sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên nhưng vẫn phải bảo vệ quyền lợi cho tất cả dân cư đang cùng chia sẻ kho tài nguyên ấy không kể biên giới quốc gia.

Phan Kiến Quốc

10/2002

Tài liệu:

- Báo SàiGòn Giải Phóng, 10-2, 17-4-2002

- Lũ lụt tại Việt Nam (Trung Tâm Thu Thập Dữ Kiện và Nghiên Cứu). Nguyễn Minh Quang, Phạm Phan Long.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.