Hôm nay,  

Vấn Nạn Quanh Sự Lập Quốc Của Người Palestines

01/10/201100:00:00(Xem: 3805)

Vấn Nạn Quanh Sự Lập Quốc Của Người Palestines

Trần Bình Nam

Tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc, hôm Thứ Sáu 23 tháng 9, đầu Thu 2011, Chủ tịch chính quyền Palestine Mahmoud Abbas chính thức đệ nạp Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đơn xin chấp thuận thành hình tân quốc Palestine.

Đơn xin thành lập quốc gia trên nguyên tắc chỉ là sự thi hành quyền “dân tộc tự quyết” như là một quyền căn bản trong sinh hoạt của cộng đồng thế giới. Thế nhưng nó đã được chờ đợi như một biến cố tại trụ sở Liên hiệp quốc ở New York.

18 năm đã trôi qua kể từ ngày 13/9/1993 khi Tổ chức Giải Phóng Palestine (PLO) và Do Thái ký bản đồng thuận Oslo (Oslo Agreement hay Declaration of Principles – DOP) qua đó Do Thái giao hai vùng đất Tây ngạn (sông Jordan) gọi là West Bank và Gaza cho một thực thể chính quyền người Palestine (Palestine Authority - PA), đổi lại PA công nhận quyền tồn tại của nước Do Thái. Các vấn đề gai góc như: quy chế thành phố Jerusalem, vấn đề người tị nạn Palestine (do trận chiến tranh 1948) trở về đâu, vấn đề các khu định cư của Do Thái xây dựng trên đất Palestine sau cuộc chiến tranh 1967 sẽ được hai bên thương thuyết với nhau trước khi Do Thái công nhận Palestine là một quốc gia có chủ quyền. 

Bản thỏa ước Oslo mang đến một tia hy vọng cho vấn đề Do Thái – Palestine. Nhưng đồng sàng dị mộng. Các cuộc thương thuyết giữa hai bên không mang lại một kết quả cụ thể nào. Hình như người Do Thái xem sự thành hình một thực thể cầm quyền Palestine là đủ để thế giới thấy thiện chí của Do Thái. Thực tế vừa hạ bút ký bản DOP, thủ tướng Do Thái Yitzhak Rabin đã tuyên bố: “thành phố Jerusalem là thủ đô lâu đời và vĩnh viễn của dân tộc Do Thái. Lập trường của Do Thái là thành phố Jerusalem (không phân chia) sẽ ở dưới sự quản trị của chính phủ Do Thái trong đó mọi cư dân đều được hưởng quyền tự do tôn giáo.”

Dù cứng rắn như vậy ông Rabin vẫn bị thành phần quá khích ám sát, và sau đó các chính quyền Do Thái chần chừ không thi hành thỏa ước Oslo, và dùng thì giờ để lấn đất vùng West Bank bằng cách cho xây một bức tường ngăn cách dọc theo biên giới West Bank và Do Thái bọc các khu định cư của người Do Thái đã xây dựng trên đất West Bank thuộc PA.

Cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine chỉ có thể giải quyết nếu Hoa Kỳ có thể cứng rắn với Do Thái. Nhưng Hoa Kỳ dù dưới chính quyền Cộng Hòa hay Dân Chủ đều không thể có chính sách cứng rắn với Do Thái. Chính sách ngoại giao này bắt nguồn từ năm 1956 khi đại tá Nasser quốc hữu hóa kênh đào Suez. Do Thái, sau khi tham khảo với Anh và Pháp đã đánh chiếm bán đảo Sinai tiến quân vào sát bờ tây kênh đào đe dọa sự lưu thông của thủy đạo quốc tế quan trọng này. Anh, Pháp lấy cớ chiếm kênh đào Suez. Tổng thống Eishenhower lo ngại Liên bang Xô viết bênh Nasser nhảy vào Trung đông nên dùng đòn bẩy tài chánh áp lực Anh rút quân (và Pháp rút theo) lui trả kênh đào lại cho Ai Cập. Biến cố này đánh dấu ảnh hưởng của Hoa Kỳ tại Tây Âu và sự mất dần ảnh hưởng của đế quốc Anh.

Cuộc khủng hoảng Suez đã đẩy khối A Rập vào khối Liên xô và biến Do Thái thành đồng minh của Hoa Kỳ. Sự đồng minh phát sinh từ một nhu cầu chiến lược của chiến tranh lạnh trong thập niên 1960 đã dần dần trở thành một quan hệ Hoa Kỳ không thể gỡ ra được do áp lực chính trị nội bộ khi người Mỹ gốc Do Thái có khả năng thao túng quốc hội và truyền thông tại Hoa Kỳ.

Cộng đồng thế giới có cảm tình với người Palestine, nhưng các cuộc biểu quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc chỉ có tính ghi nhận và khuyến cáo, Do Thái không cần tuân thủ. Chỉ có các quyết nghị của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc mới có hiệu lực của một đạo luật quốc tế, nhưng Hội đồng Bảo an không thể thông qua quyết nghị nào có tính ràng buộc Do Thái vì phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ. Các chính phủ Cộng Hòa thường bênh vực Do Thái hơn các chính phủ Dân Chủ, nhưng không chính phủ Hoa Kỳ dù thuộc đảng nào có thể coi thường sức mạnh chính trị của người Do Thái để có một chính sách ngọai giao thuyết phục Do Thái đi đến một giải pháp hai nước Do Thái - Palestine sống hòa bình bên nhau . Khi ông Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, Palestine hy vọng ông Obama sẽ đề ra một chính sách công bình hơn đối với người Palestine, nhưng sớm nhận ra rằng đó chỉ là ảo tưởng. Tổng thống Obama ửng hộ sự hình thành một nước Palestine độc lập, có chủ quyền, thành viên của Liên hiệp quốc với biên giới Palestine trước cuộc chiến tranh 1967 – và thêm – hai bên sẽ đổi đất với nhau dựa vào thực tế tại chỗ. Nghĩa là nếu có một vùng đất vốn thuộc Palestine trước năm 1967 Do Thái đã “lỡ” chiếm và xây đựng vĩnh viễn thì Do Thái có thể thương thuyết với Palestine giữ đất đó và đổi lại cho Palestine một miếng đất thuộc Do Thái (trước năm 1967). Đề nghị có vẻ hợp lý, nhưng Do Thái không dễ đổi đất vì đặt an ninh lên trên mọi nhu cầu khác. Do Thái lý luận trước thế giới rằng một holocaust với 6 triệu người Do Thái bị giết đã quá đủ, họ cương quyết không để một việc như vậy tái diễn.

Lập trường của Do Thái là cứ thương thuyết với PA, đồng thời vẫn tiếp tục gặm nhắm dần đất của Palestine qua việc xây dựng các khu định cư mới trong vùng West Bank và xây thêm nhà cửa chung quanh thành phố Jerusalem. Một nhà báo Tây phương miêu tả cuộc thương thuyết về ranh giới đất giữa Do Thái và Palestine giống như hai anh em chia một chiếc bánh. Ông anh ỷ mạnh vừa ăn dần rìa chiếc bánh vừa nói với em “đừng lo, để anh chia công bình cho em”. Ông em Palestine không thể chấp nhận một sự chia chác như vậy.

Tiến triển của nỗ lực lập quốc của Palestine nhì nhằng như vậy 18 năm qua trước sự đãi bôi vì quyền lợi của các nước lớn, nhất là 5 ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc.

Dưới sự lãnh đạo của ông Yasser Arafat năm 1987 người Palestine lần đầu tiên nổi dậy (gọi là first intifanda) trước âm mưu lấn đất lộ liễu của Do Thái. Cuộc nổi đậy bất bạo động này được phối hợp đồng loạt tại 3 phần đất riêng biệt là West Bank, Gaza và Đông Jerusalem gồm chống thuế, đình công, đặt chướng ngại trên các trục giao thông. Hình ảnh của cuộc nổi dậy được thế giới chứng kiến là hình ảnh thanh thiếu niên Palestine dùng tay không, ná cao su, gạch đá chống lại lực lượng an ninh trang bị bằng súng đạn của Do Thái. Cuộc nổi dậy này chấm dứt năm 1993 với thỏa ước Oslo sau khi đã làm thiệt mạng 2,100 người Palestine, trong đó có 1000 người bị giết vì nghi là hợp tác với Do Thái, và 164 người Do Thái.

Cuộc nổi dậy thứ hai (second intifada) bùng nổ vào mùa Thu năm 2000 sau khi thủ tướng Ariel Sharon đi thăm khu Al-Haram Al-Sharif (gọi là Temple Mount ) do Do Thái kiểm soát tại Jerusalem. Người Palestine và người Do Thái đều xem Temple Mount là thánh địa của mình. Cuộc nổi dậy thứ hai bao gồm các hình thức phản kháng bạo động và bất bạo động, và chấm dứt sau khi chủ tịch Yasser Arafat qua đời năm 2004. Ông Mahmoud Abbas thay thế Arafat chủ trương chấm dứt bạo động và tìm giải pháp lập quốc qua thương thuyết khởi đầu bằng quyết định của thủ tướng Sharon rút quân và triệt hạ các khu định cư Do Thái trong vùng Gaza. Tổn thất nhân mạng trong cuộc nổi dậy thứ hai ước lượng 4.745 người Palestine và 1.053 người Do Thái.

Tư năm 2004 đến nay tình hình thương thuyết không có gì thay đổi. Tổng thống Obama có mang đến một chút hy vọng qua các phát họa mới nhưng vẫn không đi tới đâu trước thực tế chính trị tại Hoa Kỳ với sự kiểm soát truyền thông và khả năng vận động tại quốc hội (lobby) của người Mỹ gốc Do Thái .

Phát họa chính sách mới đối với vụ tranh chấp Do Thái – Palestine trong bài diễn văn đọc tại Cairo ngày 4/6/2009 tổng thống Obama nói: “… vấn đề Do Thái – Palestine chỉ có thể giải quyết qua công thức hai quốc gia công nhận nhau và cùng tồn tại bên cạnh nhau.” (The only resolution is for the aspirations of both sides to be met through two states, where Israelis and Palestinians each live in peace and security). Nhưng ông không làm gì để áp lực Do Thái ngưng các phát triển thêm các khu định cư trong vùng West Bank ngoài sự hứa hẹn “ … sẽ đích thân, kiên nhẫn và khéo léo để thực hiện …” (I intend to personally pursue this outcome with all the patience and dedication that the task requires).

Nhưng bản đồ chính trị Trung Đông thay đổi từ đầu năm 2011 sau các cuộc nổi dậy lật đổ các chế độ độc tài tại Tunisia, Ai Cập, Lybia và đang làm lung lay các chính quyền độc tài khác tại Syria, Yemen và một số tiểu quốc A Rập khác.

Sự ổn định (tiền 2011) tại Trung Đông qua trục Ai Cập, Do Thái và Thổ Nhĩ Kỳ dưới sự cầm chịch của Hoa Kỳ không còn nữa. Sau khi Hosni Mubarak từ chức quan hệ giữa Ai Cập và Do Thái trở nên nguôi lạnh, và sau khi Do Thái truy kích quân du kích Palestine qua biên giới làm thiệt mạng một số quân nhân Ai Cập thì sự xích mích giữa hai nước bộc phát bằng những cuộc biểu tình phản đối Do Thái trên đường phố Cairo. Ngày 10/9/2011 dân chúng bao vây đập phá tòa đại sứ Do Thái tại Cairo, chính quyền Ai Cập phải vất vã lắm mới cứu được 80 công chức Do Thái và thân nhân đưa ra khỏi Ai Cập. Trong khi đó quan hệ giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Do Thái vốn đã căng thẳng từ tháng 5/2010 khi Hải quân Do Thái tấn công tàu dân sự Thổ tiếp tế nhân đạo cho dân chúng Gaza giết chết 9 công dân Thổ trở nên căng thẳng hơn khi thủ tướng tướng Thổ Erdogan (Recep Tayyip) công khai khuyến khích và hỗ trợ quyết định của chủ tịch PA Mahmoud Abbas sẽ đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc vào dịp Đại hội đồng tháng 9 năm 2011.

Sáng kiến đưa đơn xin gia nhập Liên hiệp quốc của PA có từ năm 1999 lúc ông Arafat còn sống. Năm 1999 ông Yasser Arafat dự định đích thân dự đại hội đồng Liên hiệp quốc và nộp đơn gia nhập Liên hiệp quốc, nhưng Do Thái giam lỏng ông tại thủ đô Ramallah buộc ông bỏ ý định này . Sau khi ông Arafar qua đời tân chủ tịch Mahmoud Abbas tạm bỏ qua việc xin chính thức gia nhập Liên hiệp quốc trước áp lực của Do Thái và Hoa Kỳ chờ cơ hội.

Nay thời cơ đã tới. Trục Do Thái -Ai Câp –Thổ nhĩ Kỳ bể. Do Thái bị cô lập. Hoa Kỳ vẫn còn có thể phủ quyết, nhưng sẽ phải trả một giá rất đắc trước dư luận bất lợi trong thế giới A Rập .

Tại sao Do Thái và Hoa Kỳ lo ngại việc Palestine trở thành thành viên của Liên hiệp quốc qua quyết nghị của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc chứ không qua thương thuyết tay đôi với Do Thái" Nếu Palestine trở thành quốc gia thành viên Liên hiệp quốc điều này chứng tỏ nỗ lực lập quốc của người Palestine được sự yểm trợ của cộng đồng thế giới, và nước Palestine có quyền đưa các vụ lấn đất của Do Thái ra trước tòa án quốc tế. Do Thái và Hoa Kỳ nói họ lo ngại một cuộc nổi dậy thứ ba (third intifada) sẽ bùng nổ đưa đến chiến tranh và bất ổn nếu Hội đồng Bảo an không thông qua đòi hỏi của người Palestine.

Hai ngày trước khi chủ tịch Mahmoud Abbas đích thân đệ nạp đơn gia nhập, tổng thống Obama đọc diễn văn trước Đại hội Liên hiệp quốc nói rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ phiếu phủ quyết. Và thành phần thân Do Thái tại quốc hội Hoa Kỳ cho biết sẽ vận động quốc hội cắt viện trợ cho chính quyền Palestine.

Chủ tịch Abbas biết rõ các sự de dọa này, nhưng ông không lùi bước. Thổ Nhỉ Kỳ hứa sẽ viện trợ thay Hoa Kỳ, và Saudi Arabia cho biết phiếu phủ quyết của Hoa Kỳ sẽ làm thay đổi “tình nghĩa” giữa Hoa Kỳ và khối A Rập tổng thống Obama đang vun xới.

Ông Mahmoud Abbas đã đi một nước cờ cao. Hoa Kỳ phủ quyết, đơn ông sẽ được đưa ra trước khóang đại Liên hiệp quốc và dễ dàng tranh thủ 2/3 quốc gia ủng hộ, trong đó có thể có cả phiếu cộng đồng Âu châu, Anh và Đức chấp nhận quy chế “quan sát viên” như quy chế hiện nay của Vatican.

Biểu quyết bác bỏ thỉnh nguyện của người Palestine sẽ đặt Do Thái và Hoa Kỳ bên lề trái của lương tâm thế giới và sẽ là yếu tố tích cực đưa Palestine đến vị trí một quốc gia có chủ quyền sống hòa bình trong cộng đồng thế giới trong một tương lai không xa.

Triển vọng chấm dứt cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine không lúc nào sáng sủa bằng lúc này. “Cùng tất biến, biến tất thông”.

Trần Bình Nam

Sept. 30, 2011

[email protected]

www.tranbinhnam.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.