Hôm nay,  

Gặp lại Cha Padmo, hoài niệm Galang

05/11/201100:00:00(Xem: 11720)

Gặp lại Cha Padmo, hoài niệm Galang

buivanphu_20111102_h01_chuphinhchung-large-content: Những cựu thuyền nhân ở Galang chụp hình kỉ niệm với cha Padmo trong buổi hội ngộ ở San Jose hôm 30-10-2011. (ảnh Bùi Văn Phú)

buivanphu_20111102_h02_haidangpadmovu-large-content: Cha Vũ Hải Đăng, bên trái, cha Padmo và cha Nguyễn Vũ. (ảnh Bùi Văn Phú)

buivanphu_20111102_h03_giadinhvuigaplai-large-content: Cựu thuyền nhân Galang vui mừng gặp lại vị ân nhân. (ảnh Bùi Văn Phú)

buivanphu_20111102_h04_galang_tncg-large-content: Cha Padmo, đội mũ, trong một lần đi sinh hoạt ngoài biển với thanh niên công giáo ở Galang năm 1986. Tác giả bài viết đứng bên trái của cha. (ảnh Bùi Văn Phú)

buivanphu_20111102_h05_galang_canhtraimot-large-content: Trại tị nạn Galang năm 1986. (ảnh Bùi Văn Phú)

Bùi Văn Phú

“Đẩy xe”, “lên đồi”, “tình xù” là những từ ngữ mang ý nghĩa riêng đối với những ai đã từng sống ở trại tị nạn Galang, một đảo nhỏ được chính phủ Indonesia và Liên Hiệp quốc dùng làm nơi đón tiếp hơn 200 nghìn người Việt vượt biển tìm tự do trong 20 năm kể từ sau ngày 30-4-1975. Đó là ngôn ngữ của hẹn hò, buồn vui, đổ vỡ trong tình yêu trại tị nạn.

Chủ nhật 30-10-2011 vừa qua, những tiếng đặc thù đó lại được gợi lên trong vở kịch vui “Gia đình bác Tám đi thanh lọc” do những cựu thuyền nhân trình diễn nhân dịp hội ngộ với linh mục Padmo, nguyên tuyên úy công giáo tại trại Galang đến thăm Hoa Kỳ.

Vở kịch dựng lại khung cảnh Galang của những năm 1990 khi người vượt biển đến các nước Đông nam Á không còn được mặc nhiên công nhận là người tị nạn mà phải qua thanh lọc để xác nhận quy chế tị nạn, những ai rớt thanh lọc sẽ bị trả về Việt Nam. Trước năm 1990 cụm từ “Galang cửa ngõ tình người” đã ghi sâu trong trí nhớ của thuyền nhân đến đây trong thập niên trước đó, nhưng từ khi có chính sách mới đối với người vượt biển, những chữ nghĩa đẹp này không còn được nhắc đến mà thay vào hai chữ “thanh lọc” đầy bất công và gian nan trong đời sống Galang. Qua thanh lọc là một quá trình đắng cay và đầy nước mắt đối với nhiều chục nghìn người vượt biển đã đến được các nước như Indonesia, Thái Lan, Hồng Kông, Malaysia kể từ năm 1990.

Theo những thay đổi chính sách của quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ, thập niên sau cùng của lịch sử Galang người vượt biển bị biệt lập không cho liên lạc với thế giới bên ngoài. Trong tình cảnh như thế cha Padmo là niềm hi vọng của họ. Cha là một một linh mục dòng Tên, đến phục vụ trong trại từ năm 1986, đã giúp họ liên lạc với thế giới bên ngoài, đem nguồn an ủi đến cho họ cho đến khi chương trình định cư thuyền nhân vượt biển chấm dứt, với sự tự nguyện hồi hương những người không đủ điều kiện tị nạn để sau đó được Hoa Kỳ nhận cho qua Mỹ trong chương trình ROVR.

Nhiều người đến Galang trong những ngày đầu của trại vào năm 1979, hay những ai đã qua những khoá học Anh ngữ, văn hoá Mỹ rồi lên đường định cư thì ít biết đến cha Padmo vì ngài là người tiếp tục công việc mục vụ của các cha Dominici và cha Sugundo. Cha Padmo đến trại năm 1986 và ở đó cho đến khi trại đóng cửa vào năm 1996.

Linh mục Vũ Hải Đăng, một cựu thuyền nhân và cũng là người từng giúp cha Padmo trong thời gian ở trại cho biết chuyến đi Hoa Kỳ của ngài nằm trong dịp kỉ niệm 30 năm thành lập đoàn Thiếu nhi Thánh thể Galang, 1981-2011. Các anh chị huynh trưởng cũng như các em thiếu nhi ở Galang trước đây, nay đã ổn định cuộc sống và có nhã ý mời cha Padmo qua Mỹ dịp này để bày tỏ lòng biết ơn đối với ngài.

Hai trăm cựu thuyền nhân và gia đình, đa số là người đến đảo trong giai đoạn cuối của lịch sử thuyền nhân, đã có mặt tại hội trường Unify Event Center chào đón cha Padmo trong một buổi sinh hoạt kéo dài từ 9 giờ sáng đến 2 giờ chiều.

Một thánh lễ tạ ơn được cử hành vào lúc 11 giờ hơn do cha Padmo và cha Vũ Hải Đăng đồng tế. Cộng đoàn đã dâng lời cầu nguyện cho cha Dominici và cho những người đã bỏ mình trên đường tìm tự do.

Trong bài giảng, cha Padmo đã nhắc đến Chân phước Mẹ Têrêsa qua những lời Mẹ dạy về những hoa trái của niềm tin phát xuất từ lời cầu nguyện, từ niềm tin dẫn đến tình yêu, từ tình yêu đến phục vụ và hoa trái của phục vụ là sự bình an trong tâm hồn. Ngài nhấn mạnh đến tình thần phục vụ anh em trong đời sống mỗi người. Cha Padmo cũng chia sẻ cảm nhận riêng là từ ngày rời trại chưa bao giờ ngài lại được hiện diện giữa những người Galang đông như hôm nay. Cha nói đây thực là không khí Galang ngày trước và cuộc hội ngộ này có được cũng là do ý Thiên Chúa.

Sau thánh lễ mọi người chung vui với nhau trong bữa cơm thân mật và một chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn. Đến sinh hoạt còn có linh mục Nguyễn Vũ nguyên là một ấu nhi ở Galang trong những năm cuối thập niên 1980. Bài ca sinh hoạt “Mỗi người là một cành hoa” đã được cách anh chị cất tiếng hát to để ôn lại kỉ niệm trong trại ngày xưa. Nhắc đến Galang cũng không thể quên giọng hát Khánh Ly với “Biển nhớ” vang vang trên loa phát thanh mỗi sáng có chuyến tàu định cư. Hôm nay những lời nhạc đó đã được hai bạn trẻ song ca, gợi lại nhiều kỉ niệm buồn vui đời sống tị nạn. Vui cho người lên đường định cư và buồn cho những ai còn ở lại đảo. Những buổi sáng như thế đã có bao nhiêu nước mắt rơi xuống đảo, trước văn phòng ban đại diện, nơi cầu tầu.

Nhắc đến Galang, chị Liên Lê nhớ đến những thánh lễ vào sáng sớm ở trại 1, rất vắng người nhưng cha Padmo vẫn cử hành. Một anh kể cho người viết bài nghe về các sinh hoạt của hướng đạo trong công tác dựng nhà mới thay cho nhiều ba-rắc đã mục nát theo thời gian. Chị Oanh tâm sự về nỗi lo sợ phải trở về Việt Nam trước khi được qua Mỹ theo diện ROVR.

Trong niềm vui được hội ngộ, hôm nay nhiều người đã quây quần bên cha Padmo chụp hình, tặng cha những món quà để tỏ lòng biết ơn. Gặp lại nhau các cựu thuyền nhân Galang ôn lại những kỉ niệm, những khó khăm của nhiều năm trước khi tương lai chưa biết về đâu. Nhiều hình ảnh cũ được chiếu lên. Những con đường trại, những ba-rắc, nhà thờ Thánh Giuse, nhà thờ Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội, Chùa Kim Quang, quán cà phê, cầu tầu, những lần đi đàng Thánh giá. Hình ảnh cha Padmo hiện diện trong nhiều sinh hoạt.

Sau gần phần tư thể kỉ, một lần nữa được dự thánh lễ do cha Padmo chủ tế, cha Hải Đăng nhận xét là sau bao năm không còn tiếp xúc với người Việt mà tiếng Việt của cha Padmo khá hơn, đọc sách lễ trôi chảy hơn. Còn hình dáng ngài vẫn gầy, có điều mái tóc đã bạc trắng so với những ngày còn ở Galang.

Trong thời gian công tác tại Galang, người viết bài đã có nhiều dịp cùng cha Padmo tham dự các sinh hoạt thanh niên. Gặp lại ngài ở San Jose là một niềm vui vì đây là cơ hội để cám ơn cha đã giúp đỡ tinh thần cho thuyền nhân trong giai đoạn đầy sóng gió của cuộc đời họ. Một lần nữa xin gửi đến cha Padmo hai tiếng “Terima kasih”.

© 2011 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.