Hôm nay,  

Cá RỒNG

17/01/201200:00:00(Xem: 13830)

Cá RỒNG

ca_rong_bai_ds_tran_viet_hung-large-contentCá cảnh và cá làm thực phẩm

DS Trần Việt Hưng

Cá Rồng (Arowana), tên gọi chung cho các loài cá thuộc họ Osteoglossidae, một họ cá nước ngọt có mặt tại Á châu nhiệt đới, Nam Mỹ và Úc cả tại Phi châu. Cá Rồng được đặt tên và phân chia thành nhiểu chủng loại tùy theo màu sắc và địa danh nơi sinh sống. Riêng Cá Rồng Châu Á, thuộc chi Scleropages, đã được xem là một loài cá cảnh 'siêu hạng' và nuôi cá Rồng đã trờ thành một 'mốt' thời thượng dành cho các 'đại gia' tại Việt Nam. Một chú cá Rồng 'quý' như Cá Rồng Bạch kim được nhập từ Singapore, Mã Lai về Việt Nam trị gíá đến..40 ngàn USD., thậm chi có những con được lai tạo đặc biệt (có một không hai) như con Hoàng Triều Thanh long được đính gíá đến trên 500 ngàn USD (?) đang thuộc quyền sở hữu của một 'đại gia' Nhật .Tuy nhiên giới 'chơi' cá cảnh có lẽ it ai biết là Cá Rồng đã từng được dùng làm thực phẩm tại vùng sông Mekong và cá Rồng Nam Mỹ cũng hiện đang là một nguồn thực phẩm cho dân cư vùng Amazon...

Họ cá Osteoglossidae (Bonytongues) có thể được chia thêm thành hai họ phụ tùy theo có hay không có râu nơi hàm dưới :

Họ phụ Heterotidinae : hàm dưới không râu

Họ phụ Osteoglossinae : có râu nơi hàm dưới

Họ phụ Heterotidinae chỉ có 2 chi và mỗi chi chỉ có một loài :

Arapaima gigas : Cá rồng Nam Mỹ, tên thường gọi là Pira cucu, Arapima

Heterotis niloticus : Cá rồng Phi châu hay African Arowana.

Họ phụ Osteroglossinae cũng có 2 chi Osteoglossum (có 2 loài) và Scleropages (có 3 loài). Các loài thuộc họ này gồm :

Osteroglossum bicirrhosum : Cá rồng bạc (Ngân long)= Silver Arowana.

Osteroglossum ferreirai : Cá rồng đen (Hắc long) = Black Arowana.

Scleropages formosus : Kim long , là loài cá Rồng 'chính thống= Green arowana, Asian bodytongue

Scleropages jardinii : Gulf Saratoga, Australian arowana

Scleropages leichardii : Spotted Saratoga, Spotted arowana

Trong 5 loài trên : 2 loài Osteroglossum có nguồn gốc từ Nam Mỹ, loài Scleropages formosus từ Đông Nam Á và 2 loài sau cùng từ Úc châu (ít được giới nuôi cá cảnh chú ý)..

Các nghiên cứu sâu rộng của Pouyaud, Sudarto và Teugels về Scleropages formosus , công bố trong Cybium Số 27-2003, đã chia loài này thêm thành 3 loài riêng hiện đang được nuôi làm cá cảnh :

Scleropages aureus = Red-tailed golden arowana (tên cá cảnh là Kim long hồng vỹ)

Scleropages legendrei = Red Arowana, Super red arowana, Chili red arowana (Huyết long)

Scleropages macrocephalus = Silver Asian arowana

Một số đặc điểm chung của Cá Rồng :

Cá Rồng có thân thon dài và dẹt một bên, khi còn nhỏ lưng thẳng nhưng khi trưởng thành trở thành hơi cong. Miệng to, nghiêng và nhô, có thể mở khá rộng: khi mở hết có dạng hình chữ nhật. Có một đôi râu nơi hàm dưới Trong miệng có nhiều xương nơi hàm, khẩu cái, vòm miệng.. và cả lưỡi cũng có xương. Răng nhỏ, xít và sắc. Mắt to. Thân phủ vẩy to, thô, thuôn tròn và lấp lánh. Vẩy. tùy loài, được sắp xếp theo một hoa văn có hình dạng riêng. Vây ngực dài; vây bụng nhỏ. Vây lưng và vây hậu môn có tia mềm, dài và nằm về phia sau thân.

Cá có thể nhận oxygen bằng cách 'hớp' không khí qua một hệ thống bong bóng, và được xem là một loài cá 'phải thở bằng không khí'

Cá có thể đạt chiều dài từ 60 đến 90 cm, tối đa lên đến 120 cm, trọng lượng đến 7.5 kg và có tuổi thọ rất cao, lên đến 20-30 năm khi nuôi trong các hồ cá cảnh.

Màu sắc của cá rất đa dạng (Xem phần Cá cảnh)

Cá thường sống ở các sông, suối, hồ có dòng nước chảy chậm, gần mặt nước. Chúng thuộc loại cá dữ, ăn mồi sống như các loài cá nhỏ, ếch, nhái..Cá rồng nhảy khá cao, có loài (như Osteoglossum) có thể nhảy cao đến 2m khỏi mặt nước.

Cá trưởng thành chậm, đẻ trứng, mỗi đợt từ 40-70 trứng, có đường kính chừng 1.7 cm Trứng được ấp trong miệng cá trống cho đến khi nở.

Cá RỒNG làm cá cảnh

Người Trung Hoa trên thế giới tin rằng Rồng là một linh vật tượng trưng cho sự may mắn và Cá Rồng với hình dạng và màu sắc đặc biệt, rất có thể ..cùng tổ tiên với Rồng nên nuôi cá Rồng sẽ đem lại may mắn, phát tài, phát lộc..Khoa Phong-Thủy còn đi xa hơn khi cho rằng bể hay hồ chứa cá Rồng là Phong ; nước trong hồ nuôi cá là Thủy; cá Rồng là Tài.. và khi phối hợp cả 3 chữ sẽ là Đại Phúc.. Do đó khi nuôi cá, ngoài việc thưởng thức vẻ đẹp hiếm có của cá, người nuôi còn chứng tỏ thêm được sự giàu sang, phú quý..

Trên nguyên tắc, tất cả mọi loài cá rồng đều có thể nuôi để làm cá cảnh (kể cả cá rồng từ Úc, Phi châu và Nam Mỹ), nhưng trên thực tế giới 'chơi cá cảnh' trên thế giới, nhất là tại Á châu chỉ 'nuôi' cá rồng Á châu (Asian Arowana) và xem việc nuôi cá rồng là một 'nghệ thuật' đòi hỏi nhiều công phu và tiền bạc.

Cá rồng Châu Á đã được đưa vào danh sách các sinh vật đang gặp nguy cơ tuyệt chủng (endangered species) :2006 ICUN Red List dựa trên các số liệu thu thập từ 1996. Việc buôn bán cá rồng được đặt dưới sự kiểm soát của Tổ chức Quốc tế CITES ( Convention on the International Trade in Endangered Species of Wild Flora and Fauna). Nhiều cơ sở nuôi và sản xuất cá rồng tại Á châu đã ghi danh với CITES để chịu sự giám sát trong việc buôn bán cá trên thị trường, và nhiều quốc gia khác như Hoa Kỳ gìới hạn việc sở hữu cá rồng như đòi hỏi phải có giấy phép khi muốn nuôi cá.(Riêng tại Hoa Kỳ, việc tư nhân sở hữu Asian arowana là bất hợp pháp Muốn được cấp giấy phép người sở hữu phải là một cơ sở dùng cá để trưng bày trong bể nuôi cho công chúng xem (public aquarium) hay một cơ sở nghiên cứu. Sở hữu cá bất hợp pháp là vi phạm luật Liên bang bị phạt rất nặng (lên đến 25 ngàn USD ) kể cả bị tịch thu cá và phạt tù , có thể đến 5 năm. Một tòa án tại San Francisco, tháng 3 năm 2008 , đã xử phạt Danny Yep 2 tháng tù và 3 năm thử thách cộng thêm tiền phạt 2000 USD về tội danh bán cá Rồng Á châu bất hợp pháp.). Tại Canada, luật tương đối dễ dàng hơn : tư nhân có thể sở hữu Asian arowana nếu đáp ưng được một số điều kiện quy định.

Phong trào nuôi cá rồng tại Á châu, khởi đầu tại Mã lai và Singapore vào thập niên 70 và sau đó phát triển rất nhanh trong thập niên 80 sang Taiwan, Thái Lan, HongKong và Nhật.. khiến cho cá rồng bị đánh bắt đến mức hầu như cạn kiệt tại Mã lai, Thái lan..Những 'đại gia' và những nhà 'quý tộc Việt Nam vào những năm 2000, cũng tham gia 'mốt' nuôi cá rồng cầu may và nhập vào VN những con cá trị giá xoàng xoàng khoảng..2, 3 ngàn USD

Đến đầu năm 1989, CITES bắt đầu cho phép buôn bán Cá rồng châu Á, với một số điều kiện như cá được sản xuất tại một trại nuôi và cá phải là cá của thế hệ thứ nhì, phát xuất từ cá bố/mẹ đã 'đăng ký'. Đợt cá đầu tiên được phép bán trên thị trường phát xuất từ Indonesia. Sau đó Singapore, với sự yểm trợ của Chinh phủ, đã có nhựng trại ép giống được CITES chứng nhận, sản xuất cá và bán ra thị trường từ 1994.

Cá rồng, từ nuôi-ép, khi được phép CITES buôn bán được kiểm soát đòi hỏi 2 điều kiện :

Mỗi con cá (buôn bán hợp pháp) phải có một Giấy chứng nhận do trại nuôi cá cấp phát, kèm theo một giấy khai sinh của cá.

Mỗi con cá được gắn một microchip điện tử , gọi là Passive Integrated Transponder (PIT) để giúp 'nhận diện' căn cước của cá

Giấy chứng nhận bắt buộc phải ghi rõ xuất xứ, số 'đăng ký' kiểu như 'serial number' và số này phải trùng với số ghi trên chip gắn vào cá.

Khác với cá Koi thường được nuôi trong những hồ nhân tạo ngoài thiên nhiên (như trong vườn) hoặc xây cất trong nhà, cá rồng phải được nuôi trong những bể bằng kính thường cần dài trên 2m với những hệ thống lọc nước và đèn chiếu thiết kế theo từng điều kiện riêng của từng loài cá (ánh sáng sẽ giúp tăng màu sắc, độ bóng của vẩy cá), chưa kể đến những đòi hỏi về thức ăn để nuôi cá, thông thường là tôm nhỏ, bỏ đầu nhưng những tay nuôi cá còn cho cá ăn nhựng món 'kỳ dị' hơn như gián, thạch sùng và..rết (?) 

Giới chơi cá cảnh có những cách thức phân loại Cá Rồng riêng, tùy theo mảu sắc của cá :

Kim long quá bối

Huyết long

Kim long hồng vỹ

Ngân long

Thanh long

Kim long quá bối :

Các tên Âu-Mỹ : Cross back Golden Malaysia, Blue Malaysian bonytongue, Bukit Merah Blue, Taipeh Blue Golden.

Cá có nhiều tên khác nhau tùy theo nơi được ép giống như tại Mã lai (Perak, Trengannu, hồ Bukit Merah), Singapore..

Tên khoa học : Scleropages formosus

(Tên khoa học này chưa được các nhà nghiên cứu đồng ý, tạm để chung với Thanh long tuy một số đặc điểm có thể gần vơi Kim long hồng vỹ)

.Nguồn gốc tại Bang Pahang và vùng hồ Burit Merah tại Perak nơi Bán đảo Mã Lai

Kim long quá bối hiện là loài cá cảnh đắt giá nhất vì nhu cầu cao, rất khó sản xuất và các trại ép cá tại Mã lai không đủ cung cấpcho thị trường cá cảnh.

Cá còn được phân loại xa hơn tùy theo màu của vảy cá và tùy theo màu đạt được đến hàng vảy nào, xếp theo thứ tự từ bụng đi lên lưng , và nền của vẩy như vẩy có nền vàng, bạc, nền xanh, tím..Loài nền vàng (loại vàng 24K) được đánh giá là có giá trị cao nhất : vẩy màu vàng óng ánh từ viền vẩy vào đến tâm vẩy : toàn thân giống như một thỏi vàng 24K bơi lội trong hồ. Theo William Goh (trên trang mạng dragonfish.com), các tay 'chơi' cá Rồng xếp hạng cá Kim long quá bối như sau :

Hạng thường : các loại 'gold-based', 'blue-based', màu nhạt. Màu chỉ phát triển đến khoảng 50% đến hàng vảy thứ 5.

Hạng A : các loại 'emerald-blue based' (nền xanh ngọc thạch) và 'blue based' xuất xứ từ Hồ Bukit Merah. Màu phát triển lên đến 50% của hàng vảy thứ 5. Đầu dạng muỗng múc tròn (spoon), môi không bị trề.

Hạng AA : Như các loại Hạng A, nhưng màu phát triển lên toàn bộ hàng vảy thứ 5, và có một ít 'châu' nơi gốc của vây lưng.

Hạng AAA : Tương đối hiếm, màu phát triển lên đến hàng vây thứ 6 trên lưng, đồng thời có một số 'châu' nơi vây lưng. Đầu dạng spoon, môi không bị trề.

Hạng AAA + : Rất hiếm gồm các loại 'gold head', 'full gold' và 'platinum'. Ngoài các đặc tính của loại 3A còn có thêm : 'gold head' có những vệt màu vàng trên đầu; 'full gold' toàn thân màu vàng 24K ; và 'platinum' toàn thân màu bạch kim. Platinum Crossback là do ở đột biến di truyền, thân sáng tỏa màu trắng bạch kim dưới ánh đèn.

Huyết long :

Các tên Âu Mỹ : Red Asian arowana, Super Red arowana

Tên khoa học : Sclerophages legendrei

Huyết long là một loài cá rồng xuất phát từ vùng Tây Kalimantan (Indonesia) nơi các sông Kapuas, hồ Sentarum. Cá trưởng thành có nắp mang, vẩy thân và màng của vây đều màu đỏ kim loại. Lưng màu nâu xậm. Khi cá còn nhỏ, lưng càng xậm thì khi trưởng thành sẽ càng đỏ đẹp..

Huyết long , tùy màu của vẩy được chia thành 4 loại khác nhau và giá cả cũng..khác nhau.

Huyết long màu đỏ ớt :Red chili asian arowana

Huyết long màu đỏ của máu : Red blood arowana

Huyết long đỏ cam (Orang-red)

Huyết long đỏ-vàng (Golden red)

Sự phân biệt giữa đỏ-ớt và đỏ-máu do ở màu tươi và sáng hơn của đỏ-ớt so với màu đỏ xậm hơn của đỏ máu. Hình dáng của 2 loài cũng có những khác biệt do ở sự lai tạo và do môi trường sinh sống, tùy theo nồng độ tanins trong nước.

Cá 'đỏ-ớt' có thân hình rộng và dày; mắt to và rộng : có khi phần trên của mắt gần như đụng đến đầu và phần dưới gần đếng miệng. Mắt cũng màu đỏ. Đặc biệt là đuôi hình kim cương=diamond shape, có nơi gọi là pear-shape (tại VN gọi là đuôi hình trái đào), mọc dài ra phía sau khi trưởng thành..

Cá 'đỏ máu' thân hình dài và dẹp; mắt nhỏ và tròn, đuôi mở rộng hình cánh quạt = fan shape tail.

Cá 'đỏ-cam' tương đối dễ gặp, và thường được nuôi phổ biên hơn và được'sản xuất' dễ dàng hơn :Vảy màu vàng cam phủ đầy thân. Vây cũng như đuôi không có màu đỏ như 2 loại trên.

Cá ' đỏ vàng' cũng thường gặp, giá trị thấp vì thân chỉ có màu vàng nhạt, râu hơi vàng còn vây thường không màu

Tại Indonesia, các nhà nuôi ép cá đã cho lai tạo giữa cá trống Super Red và cá mái Yellow tail siver để tạo ra loại Huyết long Banjar Red loài này đầu tròn, miệng không nhọn, vẩy không sáng và không có vẩy đỏ phủ toàn thân, đồng thời vây hậu môn và vây bụng chỉ có màu cam nhạt.

3- Kim long hồng vỹ :

Tên Âu- Mỹ : Red tail Golden arowana, Indonesian Golden

Tên khoa học : Scleropages aureus

Theo như tên gọi, đây là loại cá rồng, thân vàng nhưng đuôi đỏ. Giới nuôi cá cảnh đặt tên riêng cho cá là 'Kim long Indonesia' do ở xuất xứ của Cá : từ Kalimantan và Sumatra. Cà thưởng sinh sống nơi những dòng suối nước màu xậm chứa các chất tanin hòa tan trong lưu vực các sông Siak, Batanghari..

Kim long Hồng vỹ được xem là có giá trị kém hơn Kim long Quá bối vì vẩy cá không bao giờ đạt được màu vàng (24K) ở toàn thân : màu vàng không vượt được khỏi lưng dù trưởng thảnh, đồng thời luôn luôn có một vệt đen lớn kéo dài từ đầu đến cuối đuôi cá. Vây lưng và phần trên của vây đuôi màu xanh lục xậm. Đa số có màu vàng chỉ đến được hàng vẩy thứ 4 và hiếm khi đến được hàng thứ 5. Cũng như Kim long Quá bối, cá còn được phân hạng theo màu sắc của nền như xanh, xanh lục..vàng..

4- Thanh long :

Tên Âu-Mỹ : Green Arowana

Đây là loài cá rồng thường gặp tại nhiều nơi trên hệ sông Mekong như Thái Lan, Miến điện, Campuchea, Việt Nam..Cá cũng gặp tại Mã lai và Indonesia, từng được dùng làm thực phẩm tại nhiều địa phương.

Màu sắc của cá thay đổi tùy theo những điều kiện môi sinh, lưng có thể màu xanh lục xậm, hai bên thân màu xám xanh hay xám bạc,bụng trắng nhạt, đuôi có sọc xanh xám đậm hơn. Đầu to, miệng tròn

Thanh long được xếp vào hạng cá rồng.. rẻ nhất, dảnh cho người nuôi cá rồng 'tài tử'. Tuy nhiên trong nhóm Thanh long có loài Thanh long Xanh (lai tạo tại các trại ép ở Singapore) có vẩy xanh nhưng nơi tâm của vẩy có thêm màu tím, thì lại được xếp vào hạng..quý, hiếm, được ưa chuộng tại Philippines, Thái Lan

Ngân long :

Tên Âu-Mỹ : Silver Asian (cần phân biệt với Silver arowana của Nam Mỹ)

Tên khoa học : Scleropages macrocephalus

Ngân long còn chia thành 2 loài phụ :

Loại có đuôi màu bạc xám (grey tail siver) hay Pinoh arowana

Loại có đuôi màu vàng (yellow tail silver)

Ngân long có nguồn gốc tại Borneo (Indonesia)

Ngân long có đặc điểm chung là lưng màu xám, thân màu bạc. Vẩy có những đốm đậm dạng khoanh, bụng trắng nhạt. Loại đuôi vàng có màng của vây màu vàng nhạt, và loại đuôi xám có vây và đuôi đều xám xậm

Các loài cá Rồng khác :

Tại Úc, Nam Mỹ và Phi châu cũng có một số loài cá rồng khá đẹp (nhất là tại Úc) nhưng không được giới nuôi cá cảnh 'đánh giá cao' và ưa chuộng như cá rồng châu Á. Các loài này được buôn bán tự do trên thế giới, không chịu sự kiểm soát của CITES

Cá Rồng Úc châu : Saratoga fish

Tên khoa học :

- Scleropages jardinii (Northern Arowana, Australia Gold)

- Scleropages leichardii (Spotted Arowana= Rồng đốm Úc châu)

Về hình dạng : S. leichardii có thân tương đối thon, cá dài 90 cm chỉ cân nặng 4 kg, so với S. jardinii, mập hơn, cùng độ dài lại cân đến..17 kg. Cá rồng Úc châu thân hơi dẹp, miệng to có một đôi râu cằm, mắt to, trán hơi nhô và cong về phia sau. (Rồng đốm trán thẳng, lưng thẳng).

Cá rồng Úc đẻ trứng trong các tháng 9 đến12, khoảng 30 đến 130 trứng. Cá đực nuôi con trong miệng..

Cá phân bố tại vùng Bắc Úc châu nơi lưu vực các sông Jardine và Adelaide, cả tại lưu vựcsông Fitzroy (Queensland). Cá cũng có mặt tại Papua Tân Ghinê

Giới nuôi cá cảnh phân biệt cá Rồng Úc thành 3 loại: Rồng châu, Rồng đốm và Rồng đỏ.

Rồng châu : rất đẹp và hình dạng giống cá rồng châu Á, tuy nhiên thân có nhiều vẩy và vẩy nhỏ (thân rồng Úc có đến 7 hàng vẩy trong khi rồng Á châu chỉ có 5 hàng). Màu sắc có thể từ màu đồng thau sang đến vàng, trên vẩy có những châu nhỏ hình trăng lưỡi liềm. Đuôi màu đen có chấm vàng..

Rồng đốm : Giống loài trên, ngoại trừ các vây và đuôi màu xậm hơn; trên vẩy có những đồm tròn nhỏ.

Rồng đỏ : it gặp hơn. Vẩy có màu đỏ đậm, điểm các chấm vàng. Vây có màu đỏ nâu xậm.

Cá Rồng Nam Mỹ :

Cá rồng Nam Mỹ thuộc chi Osteoglossum , được xem là những loại cá cảnh..hạng 'xoàng', phân chia thành Ngân long và Hắc long..Đa số cá Rồng nuôi làm cảnh trong các bể kiếng tại Hoa Kỳ thuộc nhóm này. Đây là cũng loài đang được dùng làm thực phẩm (Xem phần Cá Rồng làm thực phẩm.).

Cá Rồng Phi châu : Africa Nile Arowana

Tên khoa học : Heterotis niloticus

Tuy thuộc loại cá hiếm nhưng không được xem là loại cá cảnh vì tương đối xấu : đầu và cằm tròn, láng, vẩy và đuôi nhỏ.

Cá Rồng Phi châu có thể dài đến 98 cm, nặng đến 11 kg. Thân tương đối thuôn dài, phần trước thân hình ống càng về sau càng dẹp lại. Màu đen hay xam xậm. Vây lưng và vây hậu môn dài nằm lui về phía sau thân, vây bụng rất nhỏ. Đầu to, nắp mang chắc; mắt to, miệng hơi nghiêng.

Cá tạo vũng đường kính chừng 1.2 m để làm ổ và đẻ hàng ngàn trứng vào mùa hè, trứng nở sau 2 ngày và được cả cá bố/mẹ bảo vệ. Thực phẩm của cá gồm những động vật không xương nhỏ được lọc qua một hệ thống tiêu hóa xoắn ốc và phân nhánh đặc biệt của cá (epibranchial spiral), hệ thống này cũng giúp cô đặc các mảnh thực phẩm đồng thời giúp cá 'cảm nhận' nồg độ nước để tự điều chỉnh hệ thống lọc : Cá có thể chúi mõm vào những vùng chất trầm lắng, lọc lấy thực phẩm và nhả cát ra ngoài. Cá rồng Phi châu ăn cả thực vật, cây cỏ, rong..

Cá phân bố rộng rãi nơi những vùng nước cạn, ấm áp tại vùng Phi châu nhiệt đới : Gambia, Niger, Volta.. và được du nhập sang Philippines...

Trại nuôi và ép cá Rồng :

Nuôi và sản xuất cá Rồng đã trở thành một 'công nghiệp' chuyên biệt tại Mã Lai, Indonesia và Singapore. Một số loài được xem như 'độc quyền' của Mã và Indonesia. Thái Lan và Việt Nam đang thực hiện một số dự án nuôi cá Rồng..

Một nghiên cứu của Ủy Ban Sông Mekong (MRC Catch and Culture Số 1/ May 2010) ghi nhận giá bán cá Rồng tại VN (Sài gòn) như sau :

Kim long quá bối (Cross-backed golden arowana = Scleropages formosus) : dài 20 cm, giá từ 750-1250 USD.

Huyết long ( Super Red arowana= Scleropages legendrei) dài 20cm, giá 550-1250 USD.

Kim long hồng vỹ (Red-tailed golden arowana= Scleropages aureus) dài 16 cm, giá 220 USD.

Banja red arowana, do lai tạo giữa S. legendrei X S. formosus dài 16 cm, giá 100 USD.

Thanh long (Green arowana) và Ngân long (Silver Asian arowana) đồng giá 16cm/ 50 USD.

Cũng theo Tổ chức này, cá Rồng tại Việt Nam (những loài do CITES kiểm soát) được cung cấp từ Singapore do các Trại nuôi Imperial Arowana Breeding Farm Ltd và Fu Long Holdings Pte.

Cá Rồng làm thực phẩm

Cá Rồng, trên thực tế đã được dân chài trên sông Mekong và dân trong vùng Amazone (Nam Mỹ ) dùng làm thực phẩm từ lâu đời.

Tổ chức FAO đã ghi loại cá rồng Á châu (Scleropages formosus) trong danh mục cá đánh bắt làm thực phẩm trên dòng sông Mekong. Tên theo FAO là Asian bonytongue, và tên tại Kampuchea là Trey tapawt. Cá dài khoảng 90cm, phân bố tại các vùng nước đậm màu trong bán đảo Mã lai, Sumatra, Kampuchea và Việt Nam. Tại Kampuchea, cá tập trung trong khu vực núi Cardamon xuống đến Kampot..

Tại Nam Mỹ :

Họ Cá rồng tại Nam Mỹ Osteoglossidae được chia thêm làm hai họ phụ: Osteoglossinae và Heterodinae.Trong trong họ phụ Osteoglossinae có 2 loài thường được nuôi làm cá cảnh dưới tên South America arowana = Cá rồng Nam Mỹ.

Cá rồng Nam Mỹ tập trong tại lưu vực sông Amazon trong các vùng Tây Orinoco, Guyana, Rio Negro...

Osteoglossum bicirrhosum = Silver arowana=Arahuana hay Ngân long Nam Mỹ, (tại Việt Nam còn có tên gọi là Bạch long) có thể dài đến 1m, nhưng thường nhỏ hơn. Thân thuôn dài. Miệng to và hơi nhọn, có một đôi râu cẳm nhỏ. Mắt to nằm về phía trên của đầu. Khởi điểm của vây lưng và vây hậu môn thường ở khoảng giữa thân. Màu sắc của thân thay đổi từ xám nhạt đến xanh lục-vàng nhạt. Các vây màu vàng nhạt hay xanh lục nhạt. Vẩy to và bóng có ánh hồng nhạt. Đuôi hình nón Cá đẻ khoảng 200 trứng, và cá đực nuôi con trong miệng khoảng 40-60 ngày, cá con khi được nhả ra để tự sinh hoạt có thể dài 10 cm. Ngân long Nam Mỹ ăn thịt sống như các thú vật nhỏ, cá, giáp xác, sâu bọ..Chúng có khả năng phóng cao khỏi mặt nước đến 90 cm và bắt được cả chim, rắn trên các cành cây mọc gần sát nước.

Theo giới nuôi cá cảnh : có 2 loài Ngân long hiếm gặp và có giá trị cao hơn là Ngân long Hồng vỹ (Red-tail Siver) và Bạch tuyết Ngân long (Snow-White Silver)

Osteoglossum fereira = Hắc long Nam Mỹ, chỉ dài đến 60 cm Thân phũ vảy đen nhạt, đuôi hình nón.

Họ phụ Heterotidinae có loài cá rồng Arapaima là loài được dùng làm thực phẩm phổ biến nhất (tuy cá nhỏ vẫn được nuôi làm cá cảnh.

Arapaima gigas họ cá Osteoglossidae

Các tên khác : Arapaima, piracucu, paiche

Tên piraccucu do từ tiếng Bồ đào nha : Pira= cá; cucu = đỏ

Arapaima là một loài cá nước ngọt riêng của vùng nhiệt đới Nam Mỹ (cá đã được đưa sang nuôi tại một số hồ nhân tạo ở Á châu như Thái Lan, Malaysia, và dùng làm cá để câu tiêu khiển, câu xong sẽ được thả trở lại). Arapaima có thể được xem là cá lớn nhất trong các loài cá nước ngọt trên thế giới.

Cá có thể đạt đến chiều dài trên 2m và nặng trên 100 kg . Cá kỷ lục được ghi lại dài đến 4.5 m và trọng lượng tối đa ghi nhận đến 200 kg. Thân dài, phần bụng gần như hình ống. Đầu dẹp có mắt to, miệng rộng. Màu sắc của thân thay đổi từ xám nhạt đến xanh lục nhạt có thêm ánh xanh nước biển. Vẩy to có viền tím, nhất là các vẩy dọc theo lưng. Các vây có ánh đỏ.

Arapaima, cũng như các loài cá rồng khác, thở bằng không khi hớp qua miệng, sau đó đi qua một hệ thống lọc có rất nhiều mạch máu, đây là một lợi điểm để cá có thể sống tại những vùng nước thiếu oxygen hòa tan thuộc hệ sông Amazone (cá chịu được cả những vũng, hồ nơi độ oxygen trong nước thật thấp chỉ chừng 0.5 ppm).

Do sự giới hạn điạ lý của khu vực phân bố, sự sinh sản của arapaima tùy thuộc vào mùa nước lên xuống của sông Amazone. Arapaima phát dục khi được 5 tuổi, lúc cá dài đến 1.6 m. Cá đẻ trứng (từ 4 đến 47 ngàn) vào những tháng nước xuống thấp (tháng 2 đến tháng 4): chúng làm những ổ rộng chừng 50 cm, sâụ15cm nơi những vùng đáy cát. Khi nước bắt đầu lên, trứng nở và phát triển trong các tháng nước cao từ tháng 5 đến tháng 8. Cá đực nuôi con trong miệng và cá mái bơi quanh để bảo vệ..Cá bố-mẹ liên lạc với cá con khi chúng ra khòi miệng, rồi trở vào lại bằng cách tiết ra một chất phenoromones đặc biệt.

Cá thuộc loài ăn thịt sống. Thực phẩm của Arapaima là cá nhỏ, giáp xác và cả những động vật nhỏ kể cả..chim. Cá thường bơi nơi bề mặt vì cần 'hớp' hơi sau mỗi khoảng 20-30 phút và có thể phóng lên cao để đớp chim nhỏ đậu tại các cành rủ xuống gần mặt nước.

Để bảo vệ cho cá đang trên đà bị tận diệt do khai thác quá mức, Chính phủ Ba Tây đã cấm việc khai thác thương mại : giới hạn việc đánh bắt chỉ cho phép bắt cá tại những vùng hoang sơ của lưu vực sông Amazone, chỉ cho phép thổ dân..bắt cá để ăn. Từ 1976 đã cấm bắt cá trong các tháng nước thấp và chỉ được bắt cá dài từ 1.5 m trở lên.

Arapaima dùng làm thực phẩm :

Arapaima đã được dùng làm thực phẩm cho dân cư vùng Amazone từ lâu đời. Cá bị đánh bắt bằng cách thả lưới và săn bằng phóng chĩa, lao (chờ khi cá phải trồi lên để hớp không khí). Thịt Arapaima được xếp vào loại cá ngon, một con arapaima trung bình có thể cung cấp đến 70 kg thịt nạc, không xương.

Thành phần dinh dưỡng của cá Arapaima :

Phân chất tại Laboratory of Fish Technology ĐH Federal Univer sity of Amazonas ( World Aquaculture 2011) ghi nhận :

-Thành phần tính theo % : phần lưng - phần bụng

- Calories (Kcal/100 g):

81.4 -101.5

- Độ ẩm: 79.5 - 76.8

- Chất béo: 0.61 - 2.47

- Chất đạm: 18.5 - 17.5

- Tro: 0.87 - 0.84

- Carbohydrate: 0.40 - 2.31

Về thành phần các acid béo cần thiết bảng phân chất ghi : Phần thịt bụng của cá chứa nhiều acid béo bão hòa (SFA) và và acid béo chưa bão hòa loại đơn (MUFA), trong khi đó phần thịt lưng lại chứa nhiều acid béo bão hòa loại đa (PUFA).

Thành phần các acid béo omega : mg/100g

- EPA lưng : 13.2 bụng : 8.01

- DHA 52.14 - 14.05

-Linolenic acid 14.04 - 30.56

Ẩm thực và vài phương thưc sử dụng :

Lưỡi cá : Tại Nam Mỹ, lưỡi của Arapaima được dùng như một dược liệu. Dân địa phương phơi khô lưỡi cá, dùng chung với vỏ cây Guarara (chứa nhiều caffein) để lảm thuốc giảm cân, tạo bớt cảm giác thèm ăn. Bột cạo tử lưỡi cá khô, hòa trong nước để trị sán lãi. Lưỡi cá phơi khô, khá cứng đã được dùng để làm dũa, dũa móng tay, và làm dụng cụ nạo trái cây.

Xương và da : Xương và vẩy cá cũng được dùng làm dũa móng tay, đồ mỹ nghệ kỷ niệm.

Thịt Arapaima được dùng dưới các dạng thịt tươi, phơi khô và ướp muối. 

Ẩm thực Ba Tây có nhiều món ăn đặc biệt nấu nướng bằng thịt của Arapaima, và trong thực đơn được ghi bằng tên piracucu hay paiche.

Một trong những món thông dụng nhất, được ăn trong các ngày lễ hội, ăn mừng họp mặt tại Ba tây và trong tòa khu vực Amazone là món Piracucu a Casaca hay Piracucu in Tail coat . Đây là một món ăn dùng Piracucu muối, đã phơi khô làm nguyên liệu chính. Cá khô được sắt miếng, ngâm nước để sả muối trong 24 giờ, để trong tủ lạnh, thay nước khoảng 4 lần. Sau đó chiên đến chín bằng dầu olive, sau đó nấu 'om' chung bằng chuối sắt thành khoanh và khoai tây thái sợi..thêm các gia vị..làm sệt bằng bột khoai mì.(Flavors of Brazil September 7, 2010).

Một số món ăn khác từ Piracucu (hay Paiche) :

Paiche salad : Cá chiên trộn gỏi vơi nhiều loại rau, ăn trộn trong sốt mayonaise hay Worcestershire.

Paiche in lemon butter : Filet cá chiên bơ rồi ăn cùng sốt chanh trộn bơ.

Paiche ăn với cơm, làm chả trứng (Tortilla=Omeletts of paiche)

Món độc đáo và cầu kỳ nhất là Caviar piracucu chế biến từ buồng trứng của Arapaima. Trứng cá được tách riêng, ướp với rượu nho hay giấm làm từ đường mía trong nồi đất. Khối nhão sau đó để trên rây cho ráo và hun khói..

Tài liệu sử dụng :

Animal Fact Files : Fish (John Dawes).

The Different Colour Varieties of the Asian Arowana : Sclero phages Formosus are Distinct Species (L. Pouyaud, Sudarto, Guy Teugels) Cymbium 2003, 27(4): 287-305

Brazil Travel : Food and Culture (Robrerio Braga)

Trang web : Arofanatics.com

The World of Arowana (Panda Aquatic Center)

DFI History and Type of Arowana (1997)

Encyclopedia of Endangered Species (Bill Freedman)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.