Hôm nay,  

Và Tôi Đã Khóc Tại Vườn Luxembourg ở Paris

01/06/201200:00:00(Xem: 7553)
Vào buổi chiều ngày thứ Ba 22 tháng Năm, tôi đã có dịp đi dạo quanh vườn hoa nổi tiếng ở Paris, đó là Jardin du Luxembourg - mà từ cái thời thơ ấu trước năm 1945 tôi đã đọc đến thuộc lòng đọan văn trong cuốn “Livre de mon ami” của văn hào Anatole France - mô tả cảm nghĩ của một chú bé học trò đi rong chơi trong vườn này. Mùa Xuân tại khu vườn nơi đây, với những cành lá xanh mướt và hoa nở tưng bừng lộng lãy, từng đàn chim tung tăng bay lượn dành nhau kiếm mồi - cùng với hàng đòan khách du ngọan áo quần tươm tất lũ lượt đi lại dưới những tàng cây dày đặc phủ rợp các lối đi – càng làm cho lòng tôi thấy thêm phấn chấn yêu đời yêu người.

Ấy thế mà mắt tôi lại đã rưng rưng hoen lệ, lòng tôi đã se lại vì vừa mới được tin trễ về sự lìa đời từ năm 2005 của một bà chị tôi thật quý mến ngưỡng mộ - đó là vị nữ tu họat động rất năng nổ sáng tạo mà được nhiều người trên thế giới biết đến và kính trọng tên là Marie Thérèse de Maleissye (1916 – 2005). Câu chuyện bắt đầu thế này : Sau khi thăm anh chị Lê Như Khôi trên đại lộ d Alésia vào buổi trưa, thì tôi thả bộ đến thăm nhà dòng Phan sinh tại đường Reille cũng nằm trong Quận 14 – mà hồi cuối năm 1970 khi qua Paris để tham dự Hội nghị thành lập INODEP (Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc), thì tôi đã hay lui tới nơi đây và có một ít ngày đã được Marie Thérèse de Maleissye là vị Bề trên Giám tỉnh (Provinciale) sắp xếp cho tôi trú ngụ trong một phòng dành riêng cho khách vãng lai.

Sau 42 năm, thì hầu hết các nữ tu thời đó đã không còn ở đây nữa, nên tôi không gặp lại một người nào quen biết thuở xưa. Mà tôi chỉ gặp được duy nhất một nữ tu gốc Việt nam, đó là chị Thanh Hương năm nay cỡ 70 tuổi. Sau vài phút thăm hỏi tin tức thường lệ, tôi mới hỏi chị Thanh Hương : Chị Marie Thérèse bây giờ ra sao, lâu lắm rồi tôi không hề nhận được thư từ hay tin tức gì của chị ấy ? Chị Thanh Hương nói với giọng nghẹn ngào: “Marie Thérèse qua đời rồi, từ năm 2005 cách nay đã 7 năm!” Tôi lặng người, lòng thương cảm vô hạn và nước mắt lưng tròng, Một ông lão gần 80 tuổi như tôi, ấy thế mà không thể kìm hãm được nỗi xúc động trước cái tin chẳng vui này.

Rồi bình tĩnh lại, tôi tiếp tục trao đổi tin tức với vị nữ tu người Việt duy nhất trong cộng đòan Phan sinh ở đây. Qua chị, tôi mới biết được chị Colette Humbert bây giờ đã về hưu với tuổi ngòai 80 và sinh sống trong một căn hộ chung với chị Brigitte de la Bouillerie tại thị trấn Cachan ở ngọai ô Paris. Với địa chỉ do chị Thanh Hương đưa cho, tôi đã nói chuyện qua điện thọai với Colette là một cộng sự viên đắc lực của Marie Thérèse năm xưa. Và ít bữa sau, tôi đã đến thăm các chị Colette và Brigitte tại Cachan cũng gần Bourg la Reine là nơi tôi đang ở nữa – như tôi đã viết bài tường thuật về cuộc thăm viếng này.

Từ giã chị Thanh Hương, tôi tiếp tục lội bộ để thăm viếng khu Quartier Latin. Những trường Đại học và Cao đẳng danh tiếng vẫn còn đó với bao nhiêu dấu tích kỷ niệm của những nhân vật khoa học, triết học, văn học nghệ thuật … được ghi lại trong những tấm plaque ghi vắn tắt công lao đóng góp của từng người. Và tôi đã ghé vào vườn hoa Luxembourg tọa lạc trong Quận 6 là một khu vực thanh lịch nhất của Paris. Buổi chiều nắng xuân thật êm dịu, từng cơn gió nhẹ làm xao động những tàng cây xum xuê với khối lá xanh ngắt. Phong cảnh thật hữu tình, thật quyến rũ đối với khách nhàn du thuộc đủ mọi lứa tuổi. Tôi kiếm chiếc ghế ngồi nghỉ sát ven hồ nước hình bán nguyệt ở vào khỏang giữa cái vườn hoa rộng đến trên 20 hectares này.

Rồi tôi rở cuốn sách nữ tu Thanh Hương vừa mới cho - sách được xuất bản năm 2007 - viết về cuộc đời ngọai hạng của Marie Thérèse ra đọc. Cuốn sách do Colette và Brigitte cùng hợp tác biên sọan có nhan đề thật lạ lẫm : “Passionnément” (Tràn đày Say mê) - dài cỡ ngòai 300 trang kèm theo một số hình ảnh minh họa rất gọn gàng sáng sủa. Sau khi đọc lướt qua một số trang, nước mắt tôi lại ứa ra hồi tưởng lại bao nhiêu kỷ niệm đẹp đẽ với người chị tinh thần thật quý mến này. Tôi gấp sách lại, bâng khuâng nhìn cảnh vật bao quanh, nhìn số đông người qua lại trước mặt và trong lòng nổi lên một niềm thương cảm vô vàn… Dưới đây, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm sâu sắc với Marie Thérèse từ suốt trên 40 năm qua.

* Kỷ niệm tươi đẹp với Marie Thérèse de Maleissye (1916 – 2005)

1 – Cuộc gặp gỡ ban đầu

Vào khỏang đầu năm 1969, hai vị nữ tu người Pháp trong bộ áo dòng màu xám nhạt có đến thăm tôi tại văn phòng của Chương trình Phát triển các Quận 6, 7 & 8 Saigon. Đó là Marie Thérèse de Maleissye và Colette Humbert. Vào lúc đó, tất cả anh chị em trong Chương trình Phát triển chúng tôi đang rất bận rộn tất bật với công việc tổ chức cho bà con ở địa phương cùng hợp lực ra tay tái thiết xây dựng lại nhà cửa đã bị tàn phá nặng nề do chiến cuộc hồi Tết Mậu Thân 1968 gây ra. Hai vị khách chú ý theo dõi sự trình bày của tôi về tình hình xây dựng tái thiết này. Tôi nói : “Vai trò chính yếu của người thanh niên tự nguyện chúng tôi ở đây, đó là làm chất men, chất xúc tác (catalyseur) để khơi động cho số đông quần chúng ý thức được sự ích lợi của phương thức phát triển cộng đồng và rồi họ sẽ cùng nhau tự nguyện dấn thân vào công cuộc chỉnh trang tái thiết cho cộng đồng địa phương của chính họ…”

Khách tò mò hỏi thêm vì lý do nào mà tôi lại tự nguyện đi làm những việc như vậy ? Tôi trả lời đại khái rằng: “Chính cái chủ trương “Phát triển Tòan diện và Điều hòa (Développement Total et Harmonisé) của Nhóm Kinh tế và Nhân bản bên Pháp (Économie & Humanisme) - mà tôi có dịp theo dõi tham khảo ngay từ thời còn là một sinh viên trường Luật Saigon những năm giữa thập niên 1950 – đã gợi ý cho tôi dấn thân vào công cuộc xây dựng tại địa phương này. Rồi trong thời gian du học tu nghiệp tại Mỹ năm 1960 – 61, tôi lại có dịp quan sát việc xây dựng và phát triển cụ thể tại địa phương cơ sở ở những thị trấn nhỏ xung quanh vùng thủ đô Washington nữa. Và hơn nữa, trong hòan cảnh chiến tranh khốc liệt hiện nay, chúng tôi có bổn phận phải ra tay giúp đỡ chăm sóc cho các nạn nhân chiến cuộc đáng thương là chính đồng bào ruột thịt của mình nơi vùng ven biên đô thị này đây. Việc anh chị em chúng tôi đang làm ở đây chỉ là “Giúp dân để dân tự giúp lấy chính họ” – như người Mỹ thường nói : “Helping the people to help themseves”… Cả hai vị khách đều gật đầu, biểu lộ sự thông cảm tán thành lời lẽ trình bày đại lọai như thế của tôi.

Sau cuộc trao đổi tại văn phòng như vậy, thì tôi lại hướng dẫn khách đến thăm tại chỗ nơi mấy công trường chỉnh trang tái thiết ở địa phương. Chứng kiến cái cảnh xây dựng tái thiết thật là sinh động náo nức của bà con địa phương lúc ấy, cả hai vị khách đều trầm trồ khen ngợi cái ý chí hăng say nhiệt thành của người dân địa phương để kiến tạo một nếp sống an vui hạnh phúc cho chính bản thân gia đình của mình. Và lúc chia tay ra về, các chị nói với tôi : “ Chị em chúng tôi thật sự có một ấn tượng sâu sắc đối với công cuộc phát triển và xây dựng tại hạ tầng cơ sở nơi vùng ven biên thành phố ở đây - giữa thời chiến tranh khói lửa vẫn còn ác liệt kinh hòang đến thế... “

2 – Hội nghị thành lập INODEP ở Paris vào cuối năm 1970

Vào giữa năm 1970, thì tôi nhận được một lá thư do Colette Humbert ký mời tôi vào đầu tháng 12 đến Paris để tham dự Hội nghị Quốc tế thảo luận về việc thành lập INODEP = Institut Óecuménique au service du Développement des Peuples (Viện Đại kết Phát triển các Dân tộc). Tôi thật vui mừng phấn khởi với cơ hội được tham gia trao đổi kinh nghiệm và suy nghĩ với các bạn hữu quốc tế nơi kinh thành ánh sáng này. Đúng vào lúc tôi lên đường qua Pháp, thì Marie Thérèse cũng từ Saigon bay về Paris, nên tôi lại có dịp chuyện trò trao đổi với chị trong suốt chuyến đi kéo dài đến 20 chục giờ bay này.

Là người đã từng làm việc và đi lại thăm viếng trong nhiều năm tháng tại các quốc gia ở Á châu, nên Marie Thérèse tỏ ra có một sự hiểu biết rất vững vàng chính xác về tình hình văn hóa xã hội và lịch sử của nhiều quốc gia Đông Nam Á. Sinh năm 1916, Marie Thérèse cùng tuổi với bà chị cả của tôi là chị Đoàn Thị Nga mà trong nhà thường gọi là chị Chắt. Chị Chắt mắc bệnh câm điếc từ nhỏ, nên được cha mẹ tôi gửi vào sinh sống tại trại câm điếc bên thị xã Thái bình do các nữ tu phụ trách điều hành. Vì thế mà chính tôi cũng đã có thời gian theo chị để sinh sống tại cơ sở xã hội này vào lúc mới có 9 – 10 tuổi đầu. Thành ra, tôi dễ có sự gần gũi gắn bó với các nữ tu trong các họat động từ thiện nhân đạo. Và đối với Marie Thérèse, thì tôi lại càng có mối liên hệ mật thiết hơn qua tổ chức INODEP mà chị là một thành viên sáng lập năng động nhất.

Hội nghị được tổ chức trong khuôn viên của một tu viện thuộc Dòng Jésuites tại thị trấn Chantilly cách xa Paris chừng vài chục cây số về hướng bắc – với đày đủ tiện nghi cho các tham dự viên về nơi ăn, chốn ở và các phòng họp lớn nhỏ đủ cỡ. Có đến 60 người từ nhiều nước khác nhau trên thế giới đến tham dự và sử dụng 4 ngôn ngữ chính, đó là tiếng Pháp, Anh, Tây ban nha và Đức. Chúng tôi làm việc liên tục trong hơn một tuần lễ với một số phiên họp khóang đại và những cuộc họp từng nhóm nhỏ.

Một trong những diễn giả chính yếu mà gây được ấn tượng sâu sắc nhất đối với tòan thể cử tọa, đó chính là nhà giáo dục nổi tiếng từ nước Brésil có tên là Paulo Freire – tác giả cuốn sách mới xuất bản “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức). Paulo Freire nói say sưa đến cả một tiếng đồng hồ, ông nhấn mạnh đến khía cạnh cần thiết phải thay đổi cái não trạng lạc hậu được áp đặt trên lề lối suy nghĩ của người dân tại các quốc gia bị nô lệ hóa bởi cái chế độ thực dân của người phương Tây. Vì các tham dự viên đều là những người đã từng có kinh nghiệm họat động nhiều năm trong lãnh vực văn hóa xã hội, nên các cuộc trao đổi thảo luận tại Hội nghị đã diễn ra thật là sôi nổi hào hứng.

Phải nói là tôi đã học hỏi được rất nhiều điều bổ ích từ những cuộc thảo luận trong khuôn khổ Hội nghị này. Colette Humbert một trong những nhân vật chủ chốt trong Ban Tổ chức thì giới thiệu tôi là một thành viên trong Nhóm Phát động INODEP (équipe de lancement). Và kết cục, Hội nghị đã thông qua được một số quyết định cụ thể liên quan đến cơ cấu tổ chức và điều hành của INODEP tại cấp trung ương cũng như tại cấp vùng. Và Marie Thérèse de Maleissye vừa là một thành viên sáng lập tiên khởi, vừa là một trong những thành viên cốt cán của ban Quản trị đầu tiên của INODEP.

3 – Những cuộc gặp gỡ với Marie Thérèse sau năm 1975 tại Saigon

Sau Hội nghị thành lập INODEP ở Paris, lần nào đến làm việc ở Việt nam, thì Marie Thérèse đều hẹn tôi đến gặp gỡ trao đổi với chị. Đặc biệt nhất là sau 1975, chị vẫn tìm cách đến thăm Việt nam rất nhiều lần khi thì đi với phái đòan của Hồng Thập Tự Pháp, khi thì đi với phái đòan viện trợ nhân đạo. Và tôi cũng đã có một vài lần đến gặp chị ở khách sạn. Có lần vào năm 1989, tôi đã mời chị đến ăn cơm tại một quán ăn trên đường Nguyễn Huệ Saigon cùng chung với Linh mục Chân Tín, ông Tạ Bá Tòng và vài anh em trong Xí nghiệp Ứng dụng Khoa học Kỹ thuật. Vào năm 1989 này, thì nhờ có sự cởi mở với trào lưu Đổi Mới Petrestroika ở Liên Xô, nên chúng tôi đã có thể chuyện trò trao đổi tin tức với nhau một cách tương đối thỏai mái, chứ không đến nỗi phải quá dè dặt e ngại vì sợ bị công an mật vụ rình rập theo rõi như mấy năm trước đó nữa.

Đầu năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 50 năm Khấn Dòng của chị, cha Chân Tín và tôi có viết chung một tấm Thiệp Chúc Mừng để gửi đến chị. Rồi chẳng bao lâu sau, thì tôi bị công an bắt giữ và cha Chân Tín thì bị đưa ra quản chế ở Cần Giờ. Mãi đến năm 1996, khi qua định cư ở California cùng với gia đình, thì tôi mới lại có thể viết thư thăm chị. Marie Thérèse rất vui mừng được biết tin tôi đã ra khỏi trại tù và đã mau mắn hồi âm ngay cho tôi. Chị cho biết năm đó đã 80 tuổi và sinh sống trong một căn hộ bình thường trong khu lao động tại thành phố Lille phía đông bắc nước Pháp. Đây là bức thư cuối cùng tôi nhận được của chị. Và sau đó thì biệt tăm luôn, tôi chẳng còn nhận được thư từ tin tức nào của chị nữa.

**Và như đã ghi ở trên, mãi đến ngày 22 tháng Năm 2012, khi đến thăm Tu viện xưa trên đường Reille ở Paris, tôi mới được cho biết là Marie Thérèse đã qua đời từ năm 2005. Ở vào tuổi 89, kể ra là chị cũng đã sống thọ lắm. Nhưng tôi đã không sao kìm hãm được nỗi xúc động trước cái tin này. Và sau khi trấn tĩnh lại, bằng những lời lẽ đơn sơ mộc mạc nơi đây, tôi xin ghi lại một ít kỷ niệm thân thương với một người chị tinh thần rất đáng quý này để bày tỏ lòng biết ơn sâu xa và sự quý mến chân thành đối với một người đã hết lòng khích lệ nâng đỡ tôi trên bước đường dấn thân phục vụ nhân quần xã hội từ mấy thập niên qua.

Và tôi cũng xin chia sẻ nỗi đau buồn của gia đình và cộng đòan Phan sinh trước sự ra đi của một con người kiệt xuất này.

Xin nguyện cầu Linh hồn Marie Thérèse được an nghỉ thảnh thơi nơi Cõi Vĩnh Hằng. RIP./

Thành phố Bruxelles, ngày 31 tháng Năm 2012
Đoàn Thanh Liêm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.