Hôm nay,  

Lịch Sử Một Dân Tộc, Kho Tàng Cả Nhơn Loại: Cuộc Phiêu Lưu Khám PháĐền ANGKOR

16/10/201200:00:00(Xem: 10886)
Nếu lịch sử của Đền Angkor làm chúng ta mê mệt ngây ngất, thì công trình khám phá, đi tìm và gìn giữ những di tích Đền cổ Angkor cũng cả là một cuộc phiêu lưu đầy lãng mạn.

Đền Angkor, được Henri Mouhot, người được xem là cha đẻ của cuộc khám phá di tích cổ Angkor, viết và gọi là Ongkor, mà ngày nay các tàn tích còn lại được thế giới gìn giữ, bảo vệ như một kho tàng nhơn loại và nể trọng, nằm tại miền Bắc quốc gia Cambuchia, cạnh bên Biển Hồ Tonlé Sap, Henri Mouhot gọi là Tonli Sap.

Là chiếc nôi của các triều đại khmer xa xưa, Đền Angkor được xây dựng vào các thế kỷ thứ XI, thứ XIII. Đến đầu thế kỷ thứ XV, Đền bị bỏ rơi, qua đến thế kỷ XVI.. Đền được sử dụng lại một thời gian ngắn, nhưng chẳng chốc đi vào quên lảng đến ngày …được khám phá vào cuối thế kỷ thứ XIX. Dỉ nhiên thế giới khảo cổ Pháp và quốc tế cho rằng tất cả công trình khám phá khu Đền cổ nầy do công trình của Henri Mouhot, vào năm 1861. Có thật đúng vậy không?.Có thể, vì do cái nhìn lãng mạn của thế kỷ, vì tất cả những gì mà anh chàng mạo hiểm thích đi săn bắt bươm bướm (explorateur-chasseur de papillons) nầy để cho thế hệ sau được biết, chỉ là một câu chuyện đầy tánh lãng mạn của một cuộc gặp gở tình cờ.

Sau anh Henri Mouhot, là một anh thợ chụp hình, thích săn ảnh, người TôcáchLan (Scottish) tên John Thomson, chỉ vì mê câu chuyện do Mouhot thuật lại, nên vào tháng giêng năm 1866, xin phép Vua Xiêm Mongkut để đi chụp hình Angkor. Mongkut là một vị Vua rất phóng khoáng cởi mở, ông là nhơn vật chánh của cuốn truyện Anna và Nhà Vua do nữ văn hào Mỹ Margaret Landon phóng tác năm 1944 phỏng theo nhựt ký của cô giáo Anna Leonowens của triều đình Vua Xiêm kể lại vào năm 1870 và đã được Hollywood dựng thành nhiều phim, tất cả đều mang tên Anna và Nhà Vua. Bản phim năm 1956, là bản phim mà người viết cùng các bạn cùng thế hệ ở Sàigòn những năm trước 1960 đều nhớ, là do Walter Lang đạo diển với Yul Brynner trong vai nhà Vua và Deborah Kerr trong vai Anna. Người viết được xem phim nầy ở Rạp Ngọc Lan Đàlạt, những năm 58/59 gì đó. Ôi bao kỷ niệm dễ thương!.

Những năm tháng ấy (1866) Angkor thuộc đất Xiêm (Thái Lan ngày nay), John Thomson vì vậy phải xin phép Vua Xiêm. Được Vua Xiêm Mongkut cho phép, John Thomson chụp được một lô ảnh. Nhờ vậy cả thế giới qua các hình chụp của Thomson biết được Angkor.

Sau Thomson đến Doudart de Lagrée, Francis Garnier, Joseph Delaporte và nhà nhiếp ảnh Émile Gsell…Với người Việt thế hệ chúng ta, những tên tuổi nầy rất quen thuộc, do lịch sử thuộc địa Việt Nam. Vẫn trong năm 1866, vẫn trong chuyến hành trình nổi tiếng thám hiểm đi ngược nguồn sông Mêkong từ miền Nam Việt Nam, đoàn thám hiểm ghé tạt thăm Đền cổ Angkor. Và nhà nhiếp ảnh Émile Gsell có dịp trổ tài tung một loạt ảnh thứ hai và đặc biệt tấm hình có cả đoàn thám hiểm đứng ngồi trước và trên những tấm đá cổ, oai phong, hùng vĩ, cổ kính…đã đưa Angkor vào hàng kỳ quan của thế giới.

Và nếu những tên gọi rằng anh hùng nổi tiếng sau nây của lịch sử thám hiểm Đông Dương như Doudart de Lagrée hay Francis Garnier, người anh hùng thật sự phải được biết đến là Joseph Delaporte, người thật sự có công với Đền Angkor!

Vì vừa khi nhìn thấy Angkor, Joseph Delaporte như bị cú sốc cháng váng thốt lên :

“Sự thực đã vượt qua giấc mơ!”.
Phải, “mirum, virum”! Sự thực quá đẹp!

Và Joseph Delaporte, nếu đến ngày hôm ấy, chỉ là một vị sỉ quan hải quân bình thường, với một cuộc sống của một quân nhơn bình thường, bổng tự nhận trách nhiệm một nhiệm vụ phi thường :

“ là phải làm sao quảng bá Nghệ thuật và Văn hóa Khmer cho toàn Âu Châu”.

Và năm 1873, Hội Địa Dư (La Société de géographie) Pháp, các Bộ Hải quân, Ngoại Giao, và Giáo Dục, dỉ nhiên là của Pháp giao cho Joseph Delaporte trách nhiệm (dỉ nhiên cũng do anh đề nghị) : phải truy cứu và gom góp lập thành một bộ sưu tập đầu tiên về Văn hoá và Nghệ thuật Khmer. Nhiệm vụ nầy hoàn thành, anh bèn xin được giải ngũ ngành Hải quân, và trở thành một nhà bác học nghiên cứu chuyên ngành về cái đam mê nới của mình là Văn hóa và nghễ thuật khmer.

Đoàn thám hiểm Aymonier, năm 1879, đem thêm một số khám phá mới và vài năm sau,Trường Bác học Đông Nam Á(École Française dExtrême-Orient – EFEO)nhờ những khám phá đầu tay nay đã ra đời, góp mặt góp tay vào ngành khảo cổ và nghiên cứu Văn hóa và Nghệ thuật Đông Dương.

1901, văn hào và hải quân đại tá Pierre Loti, một nhà văn rất quen thuộc với chúng ta đặt chơn đến Angkor vào tháng 11 sau một cuộc hành trình dài.Và trong một lúc xuất thần, viết một phóng sự tuy “rất du khách” nhưng là một kiệt tác để đời.Tựa đề: Một nhà hành hương Angkor( Un pèlerin dAngkor): Và nhờ đó Angkor đi vào bất tử.

Đền Ta Prohm :

Năm 1901, lEFEO vừa mới ra đời. Người ta chỉ bắt đầu tìm kiếm, đào xới, … Vài ngọn đền, vài bức tường vừa nhô khổi mặt đất…và còn nhiều ngôi đền chưa khám phá xong. Và bài viết của Pierre Loti tả đúng cái cảnh của khu Đền thời gian ấy.

Ngày hôm nay, cảnh vật đã đổi thay, Đến đài Angkor không còn huyền bí như xưa nữa., Cả khu Angkor ngày nay là một khu di tích, nhưng cũng là một khu giải trí, với con số trên 3000 du khách chen lấn hằng ngày đề đi xem, chụp hình những di tích cổ.

Và Ta Prohm? Ta Prohm là khu Đến cổ, cái địa hình cổ còn lại nhắc nhở chúng ta đến cái Angkor thuở ban đầu ấy.

Và ai là người đã quyết định Ta Prohm vẫn giữ cái đẹp thiên nhiên ấy? Ấy là do Maurice Glaize, một kiến trúc sư, người trách nhiệm bảo tàng viện Angkor từ 1936 đến 1946. Maurice Glaize cũng là người tân trang, sửa sang lại những Khu khác của Đền Angkor, khu đền cổ Preah Kahn, Tháp Bayon và khu Angkor Thom. Maurice Glaize thuộc loại người khảo cổ lãng mạn. Louis Malleret, nhà viết sử các vị thám hiểm Đông dương viết tiểu sử Glaize trong bản tin EFEO ..rằng “ Galaize là một nghệ nhân của ngành khảo cổ ..” Và nhờ vậy ngày nay nếu nếu muốn thưởng thức một Đền xưa cổ của Văn Hóa và Nghệ thuật khmer thì nên đi xem Đền Ta Prohm.

Ta Prohm ngày hôm nay là điển hình của Angkor, với hình ảnh các đền dài vị các rễ cây bám chặt, trói cột, chứ không phải hình ảnh rõ ràng của Ba cái Tháp của Angkor Vat, mặc dủ đấy là hình ảnh biểu tượng được vẽ trên lá cờ xứ Chùa Tháp.

Đối với Khu Angkor Vat, Khu Ta Prohm không đáng kể, Đền Ta Prohm nhỏ nhoi hạng thứ. Ta Prohm là cái Tháp, cái Đền, cái Chùa “hạng hai”. Nhưng khi ta đi viếng thăm Angkor Vat và Ta Prohm, chúng ta sẽ đi viếng hai cách khác nhau. Với Angkor Vat, chúng ta đi môt vòng hướng dẫn, tổ chức, với những mũi tên chỉ đường. Với những lời chỉ dẫn. Với Ta Ptohm, chúng ta có thể đi lạc, và chúng ta sung sướng để được đi lạc, chúng ta đi vào hành trình của một cuộc phiêu lưu đi vào khám phá một Đền cổ xứ Khmer.

Nhớ bạn Thiếu tá Paul Y Bun Sur và Xứ Chùa Tháp

Phan Văn Song

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.