Hôm nay,  

Bên Thắng Cuộc: Sau Ngày 10-10, Sau 30-4

12/01/201300:00:00(Xem: 8106)
Sáng 30-4-1975, khi xe của cộng sản miền Bắc ủi sập cổng để tiến vào Dinh Độc Lập, cơ quan chính quyền cao cấp nhất của Việt Nam Cộng hoà, chỉ ít phút sau tổng thống cuối cùng của miền Nam là Tướng Dương Văn Minh được bộ đội áp tải đến đài phát thanh đọc lệnh đầu hàng.

Trang nhất báo Nhân Dân ngày 1-5-1975 chạy hàng tít lớn: “Hoan hô Sài Gòn giải phóng”. Ngày hôm sau báo này lại lên tít: “Miền Nam hoàn toàn giải phóng”. Đối với lãnh đạo miền Bắc, mục tiêu “chống Mỹ cứu nước”, “giải phóng miền Nam”, “thống nhất đất nước” của họ đã đạt được sau 20 năm.

Ngày đó có một thiếu niên ở miền Bắc tuổi mới 13 đang nô đùa vật lộn với bạn, khi nghe tin “Sài Gòn giải phóng” đã ngừng chơi và trong đầu nẩy ra ý nghĩ “Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.”

Ba mươi bảy năm sau, thiếu niên 13 tuổi ngày trước nay là nhà báo Huy Đức đã viết về ngày 30-4: “là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vất đi là sẽ có hoà bình.”

Nhận xét của Huy Đức phản ánh thực tế Việt Nam trong nhiều năm sau đó. Không những đất nước đã không có hoà bình vì phải đương đầu với hai cuộc chiến, ở phiá bắc và phiá tây nam, còn trong lòng nhiều người Việt nào có được an vui. Cuộc chiến kết thúc đã kéo theo nhiều hệ lụy mà cho đến hơn một phần tư thế kỷ sau chiến tranh, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã phải nhìn nhận rằng ngày 30-4 “triệu người vui mà cũng có triệu người buồn”.

Trong nước, người vui đã hoan hỷ kể đi kể lại câu chuyện của họ từ gần bốn mươi năm trên biết bao trang báo, thước phim, tác phẩm. Còn kẻ buồn, người bị tù đày, gia đình tan nát vì những chính sách “Bắc hoá” miền Nam, theo cách gọi của Huy Đức, đến giờ chưa có được cơ hội nói lên hay viết ra trên đất nước của họ. Những đề tài như tù cải tạo, đánh tư sản, vượt biển vượt biên vẫn còn là điều nhạy cảm đối với truyền thông trong nước.

Tác phẩm “Bên Thắng Cuộc” (2012) của Huy Đức cố gắng nói lên một phần của những nỗi đau đớn, oan khiên đó trong tổng thể thực trạng Việt Nam từ ngày 30-4-1975.
buivanphu_20130110_huyduc_biasach
Bìa sách Bên Thắng Cuộc.
Là một nhà báo có tiếng trong nước, là phóng viên của nhiều cơ quan truyền thông lớn như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Sài Gòn Tiếp Thị, nhưng ông đã rời những cơ quan này để được viết một cách độc lập và tự do hơn. Từ đó Blog Osin Huy Đức ra đời với những nhận định sâu sắc thu hút nhiều độc giả trong nước và hải ngoại.

Trong vai trò một nhà báo, tác giả đã có nhiều gặp gỡ, phỏng vấn quan chức lãnh đạo, nhận thức tình hình, sau lại có cơ hội đến Mỹ học hỏi và nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, Bên Thắng Cuộc là đúc kết của những tư liệu và tài liệu tác giả thu thập được.

Huy Đức đặt lại chuyện gọi miền Nam được “Giải phóng” hay ngược lại chính là miền Bắc.

Việc này từ hơn hai thập niên trước cũng đã được nhà văn Dương Thu Hương đặt ra. Còn nhà báo Mỹ David Lamb từng có mặt tại miền Nam thời chiến, sau năm 1975 đã trở lại làm đại diện cho nhật báo Los Angeles Times ở Hà Nội, đã viết trong tác phẩm “Vietnam, Now” (2002) về đất nước này thời đương đại và cũng nêu câu hỏi là người miền Nam đã được miền Bắc giải phóng khỏi cái gì.

Trong Bên Thắng Cuộc tác giả ghi lại hai câu thơ dân gian: “Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý / Đồng Khởi lên rồi hết Tự Do” là cách đặt vấn đề một cách tinh tế nhất.

Nhiều điều cấm kỵ trong nước được Huy Đức ghi lại, từ giam cầm văn nghệ sĩ như chuyện tù của nhà văn Duyên Anh, những trại học tập cải tạo, đánh tư sản mại bản, càn quyét văn hoá Mỹ-Ngụy, chuyện chìm tàu vượt biển ở Cát Lái, chuyện sống sót sau hành trình vượt biển của Phạm Thanh Tùng, chuyện vượt biên của con của thi sĩ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhã Ca, chuyện học tài thi lý lịch.


Liên quan đến chính sách đối ngoại ngay sau khi cuộc chiến chấm dứt, Huy Đức đưa ra những dữ kiện, không mới, căn cứ vào hồi ký của nhà ngoại giao Trần Quang Cơ, cho thấy Việt Nam đã bỏ mất cơ hội bang giao với Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1970 khi nhất định đòi Hoa Kỳ 3.2 tỉ đô-la bồi thường chiến tranh, cùng lúc Việt Nam liên minh với Liên Xô chống lại Trung Quốc nên đất nước lại có chiến tranh, sa lầy ở Kampuchia và gây kiệt quệ thêm cho nền kinh tế.

Sách đề cập đến một số vấn đề còn gây tranh luận cho đến nay. Như về cải cách ruộng đất, tài liệu trích dẫn cho thấy Hồ Chí Minh bị Mao Trạch Đông ép buộc thực hiện cải cách ruộng đất kiểu Trung Quốc để đổi lấy viện trợ. Theo tác giả việc hàng triệu người đã bỏ miền Bắc di cư vào Nam là vì chính sách cải cách ruộng đất được áp dụng.

Việc đưa quân sang chiếm đóng Kampuchia thì Lê Duẩn, lúc đó là Tổng Bí thư, như không tán thành qua biểu lộ chẳng chút hồ hởi hay vui mừng khi nghe tin bộ đội đã tiến vào thủ đô Phnom-Penh.

Về cách làm chính sách, tác giả như muốn quy trách nhiệm những chính sách sai lầm cho một vài cá nhân lãnh đạo: “Nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”, như “Z 30” cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết.”.

Lập luận này không thuyết phục vì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trước nay mang tính tập thể. Nếu một cá nhân có thể đưa ra những quyết định quan trọng làm thay đổi đất nước thì đã có người có thể làm như thế, chẳng hạn như Thủ tướng Võ Văn Kiệt được tác giả nói đến nhiều. Bên Thắng Cuộc ghi lại rất nhiều hoạt động của ông Kiệt từ những ngày của tháng 4-1975, mà trước nay có ít sách vở nói đến, cho đến lúc ông làm thủ tướng, đã được dư luận trong nước cho là người có đầu óc cải cách. Nhưng ông Kiệt dù có muốn cũng chỉ làm được tới đó vì tập thể lãnh đạo, tức Bộ Chính trị, không cho phép cải cách đi xa hơn nữa.

Gần đây là trường hợp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy kém khả năng lãnh đạo nhưng ông vẫn không phải từ chức hay bị mất chức vì Đảng vẫn đặt ông ở đó, như ông tự nhận. Điều này cho thấy lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính tập thể.

Đọc Bên Thắng Cuộc để thấy kế hoạch cai trị được Đảng Cộng sản áp dụng tại miền Nam sau ngày 30-4-1975 giống như chính sách đã được thực hiện sau ngày tiếp quản Hà Nội 10-10-1954. Ở miền Bắc thời đó là “cải tạo thương nghiệp”, sau ngày 30-4-1975 tại miền Nam gọi là “cải tạo tư sản mại bản”. Hai dấu mốc thời gian khó quên cho người dân Việt vì hơn nửa thể kỷ áp dụng xã hội chủ nghĩa đất nước đã không tiến nhanh, trong khi đó hàng triệu người đã trở thành nạn nhân và hệ lụy của những chính sách này còn kéo dài cho đến ngày nay.

Bên Thắng Cuộc không phải là quyển sách sử. Tác phẩm là một đóng góp nữa cho kho tài liệu viết về cùng một giai đoạn lịch sử ở Việt Nam, có thể kể: Winds and Shadows của Robert Templer; Vietnam: Rising Dragon của Bill Haydon; Cruel April, nguyên bản tiếng Pháp, của Olivier Todd; The Will of Heaven của Nguyen Ngoc Ngan; After Saigon Fell của Nguyen Long; The Refused của Barry Wain; South Wind Changing của Jade Huynh Quang Ngoc; Prisoner of Words của Le Huu Tri; Boat People: 1954, 1975-1992 của Vo M. Nghia hay Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Đáy Địa Ngục của Tạ Tỵ.

Khác chăng là lý lịch của tác giả Huy Đức. Ông là nhà báo lớn lên trong môi trường xã hội chủ nghĩa, bị bưng bít thông tin nhưng đã cố gắng tìm hiểu mọi phiá và can đảm viết lên một cách chuyên nghiệp và trung thực bằng với khả năng của mình.

Bên Thắng Cuộc quyển I: Giải phóng là quyển sách cần đọc. Quyển II: Quyền bính, mới nghe tựa đã thấy lôi cuốn những ai muốn tìm hiểu về Việt Nam đương đại.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.