Tính dến nay, Sàigòn-Giađịnh thành phố đã có hơn 300 tuổi, cái tuổi như vậy quả là trẻ trung đối với lịch sử một thành phố, một địa danh. Sàigòn-Giađịnh của Nam Kỳ lục tỉnh là vùng đất phương Nam trù phú của Tổ quốc. Tuy nhiên, nó lại là vùng đất từ đứng đầu sóng ngọn gió. Không ngừng đấu tranh anh dũng trong mọi tình huống khó khăn như thiên tai, địch họa, nạn nước...
Băng qua thời gian 3 thế kỷ đó, băng qua nước sôi lửa bổng, đất Sàigòn vẫn xanh, người Sàigòn vẫn trong sáng, cứng cỏi, tươi tắng, thủy chung và nồng nhiệt. Đọc Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí , chúng ta có thể hình dung thấy cảnh đông vui sầm uất của chợ Sàigòn (Chợ Cũ) thuở xưa:
... Phố xá trù mật, chợ làm theo dọc bến sông. Đầu xuân vào ngày tế mạ thì thao diễn thủy binh. Bến có đò ngang đón khách buôn ngoài bến lên bờ. Đầu phía bắc là rạch Sa Ngư có cầu ván bắc ngang, hai bên cầu có phố ngói, tụ tập cả trăm thức hang hóa. Dọc theo bờ sông, thuyền buôn lớn nhỏ đậu san sát...
... Cách phía nam trấn 12 dậm, nằm hai bên quan lộ là đường phố lớn, ba đường xuyên thẳng giáp bến sông, một con đường chạy ngang ở giữa và một con đường dọc theo bờ sông. Các con đường ấy giao nhau như hình chữ điền. Phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Hoa và người Việt ở chung lẫn, dài chừng vài dậm. Hàng hóa bày bán có gấm đoạn, đồ sứ. giấy má, châu báu, sách vỡ, thuốc thang, trà, bột. Những sản vật Nam Bắc theo đường sông đường biển chở tới không thiếu món nào... Hể gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt bàn, đua tranh kỹ xảo, trông như cây lửa cầu sao, thành gấm vóc hội quỳnh dao, trống kèn huyên náo, trai gái dập diù. đó là một nơi đô thị lớn náo nhiệt,
Xưa đất nước ta đã có mấy vùng phồn thịnh thứ nhứt kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến, sau có thêm Phú Xuân, sau nữa là Gia Định-Sàigòn , một vùng đầm lầy hoang rậm, trải qua nhiều năm có bàn tay ngườI Việt, đã mau chóng trở thành một nơi trù phú, đô hội. Một đất nước giàu đẹp, thịnh vượng nên chẳng thời nào thiếu kẻ dòm ngó, nhứt là vào thời điểm hậu bán thế kỷ 19 là thời điểm của thực dân da trắng từ Âu châu đổ sang Châu Á tìm chiếm thuộc địa.
Sàigòn : giao điểm của hai con đường Lê Lợi (Bonard) và Nguyễn Huệ (Charner) thời Pháp – 1920.
Từ xưa, về mặt tình cảm con ngườI ở đây vốn tánh tình bộc trực, nghĩ sao nói vậy, ghét vòng vo màu mè. Có khi đắm say. đã ưng, đã gặp thì tỏ tình liền:
- Đôi mình mới gặp hôm nay,
Cho hun một chút, em Hai đừng phiền!
Em Hai cũng chẳng hề khách khí, chỉ yêu cầu người bạn tình đừng hấp tấp, phải e dè kín đáo:
- Có hun thì hun cho liền,
Đừng làm thố lộ, láng giềng cười em!
Ở vùng đất mới phương Nam, những câu hát huê tình khi có anh trai nào để ý đến cô gái nào là mở lời ghẹo có hơi táo bạo:
- Hỡi người day mặt anh nhìn,
Anh coi có phải chung tình anh thương.
Ngày thời đánh phấn, soi gương
Em day mặt lại, anh thương em liền !
Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy , không một chút phân vân do dự, anh liền từ biệt em Hai, lập tức đứng lên ra đi, xông pha khói tên, đáp lời sông núi, xá gì thân sống !
Biết bao trang sử thơm nồng đã ghi : Chồng ra đi vì nghĩa lớn, vợ ở nhà sẳn sàng lo việc gia đình để chông an lòng lo tròn nghĩa vụ với nước non :
- Anh đi đánh giặc Lang-Sa (Pháp)
Để thiếp ở nhà lo tần lo tảo.
Chén cơm, manh áo, nhà cửa, ruộng vườn.
Để anh lên ngựa đề thương.
Thiếp dìa mặc thiếp, lo lường nuôi con.
Người phụ nữ rất tự hào khi có người chồng đứng trong hang ngủ nghĩa quân. Hãy nghe lời thốt tuy thắm tình mà rắn rỏi :
- Có chồng là lính nghĩa binh,
Dẫu nghèo, dẫu cực vẫn thương mình, mình ơi ...!
Lấy chi cái lũ báo đời,
Chuyên nghề bán nước, phá đời, hại dân.
Giặc đến nhà là phải đánh. Đánh giặc trở thành một tiêu chuẩn đạo lý để phân biệt tốt xấu, đúng sai, phải quấy... Từ 4000 năm sử Việt, đối vớI người Việt đánh giặc giữ nước là một việc không bao giờ chối bỏ, không thể chối bỏ, không được phép chối bỏ, Mới 3 tuổi cũng đi đánh giặc (Thánh Gióng), đàn bà cũng đánh giặc (Hai Bà) và đã trở thành Anh Hùng Dân Tộc. Cho nên hai tiếng Quyết chiến của các bô lão đời Trần hô to vang dội trong Hội nghị Diên Hồng cứ vang vọng mãi trong trường kỳ lịch sử đấu tranh của dân tộc.
TRẦN BÌNH LONG
Băng qua thời gian 3 thế kỷ đó, băng qua nước sôi lửa bổng, đất Sàigòn vẫn xanh, người Sàigòn vẫn trong sáng, cứng cỏi, tươi tắng, thủy chung và nồng nhiệt. Đọc Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí , chúng ta có thể hình dung thấy cảnh đông vui sầm uất của chợ Sàigòn (Chợ Cũ) thuở xưa:
... Phố xá trù mật, chợ làm theo dọc bến sông. Đầu xuân vào ngày tế mạ thì thao diễn thủy binh. Bến có đò ngang đón khách buôn ngoài bến lên bờ. Đầu phía bắc là rạch Sa Ngư có cầu ván bắc ngang, hai bên cầu có phố ngói, tụ tập cả trăm thức hang hóa. Dọc theo bờ sông, thuyền buôn lớn nhỏ đậu san sát...
... Cách phía nam trấn 12 dậm, nằm hai bên quan lộ là đường phố lớn, ba đường xuyên thẳng giáp bến sông, một con đường chạy ngang ở giữa và một con đường dọc theo bờ sông. Các con đường ấy giao nhau như hình chữ điền. Phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Hoa và người Việt ở chung lẫn, dài chừng vài dậm. Hàng hóa bày bán có gấm đoạn, đồ sứ. giấy má, châu báu, sách vỡ, thuốc thang, trà, bột. Những sản vật Nam Bắc theo đường sông đường biển chở tới không thiếu món nào... Hể gặp tiết đẹp đêm trăng, các ngày tam nguyên, sóc vọng thì treo đèn, đặt bàn, đua tranh kỹ xảo, trông như cây lửa cầu sao, thành gấm vóc hội quỳnh dao, trống kèn huyên náo, trai gái dập diù. đó là một nơi đô thị lớn náo nhiệt,
Xưa đất nước ta đã có mấy vùng phồn thịnh thứ nhứt kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến, sau có thêm Phú Xuân, sau nữa là Gia Định-Sàigòn , một vùng đầm lầy hoang rậm, trải qua nhiều năm có bàn tay ngườI Việt, đã mau chóng trở thành một nơi trù phú, đô hội. Một đất nước giàu đẹp, thịnh vượng nên chẳng thời nào thiếu kẻ dòm ngó, nhứt là vào thời điểm hậu bán thế kỷ 19 là thời điểm của thực dân da trắng từ Âu châu đổ sang Châu Á tìm chiếm thuộc địa.

Từ xưa, về mặt tình cảm con ngườI ở đây vốn tánh tình bộc trực, nghĩ sao nói vậy, ghét vòng vo màu mè. Có khi đắm say. đã ưng, đã gặp thì tỏ tình liền:
- Đôi mình mới gặp hôm nay,
Cho hun một chút, em Hai đừng phiền!
Em Hai cũng chẳng hề khách khí, chỉ yêu cầu người bạn tình đừng hấp tấp, phải e dè kín đáo:
- Có hun thì hun cho liền,
Đừng làm thố lộ, láng giềng cười em!
Ở vùng đất mới phương Nam, những câu hát huê tình khi có anh trai nào để ý đến cô gái nào là mở lời ghẹo có hơi táo bạo:
- Hỡi người day mặt anh nhìn,
Anh coi có phải chung tình anh thương.
Ngày thời đánh phấn, soi gương
Em day mặt lại, anh thương em liền !
Nhưng khi Tổ quốc lâm nguy , không một chút phân vân do dự, anh liền từ biệt em Hai, lập tức đứng lên ra đi, xông pha khói tên, đáp lời sông núi, xá gì thân sống !
Biết bao trang sử thơm nồng đã ghi : Chồng ra đi vì nghĩa lớn, vợ ở nhà sẳn sàng lo việc gia đình để chông an lòng lo tròn nghĩa vụ với nước non :
- Anh đi đánh giặc Lang-Sa (Pháp)
Để thiếp ở nhà lo tần lo tảo.
Chén cơm, manh áo, nhà cửa, ruộng vườn.
Để anh lên ngựa đề thương.
Thiếp dìa mặc thiếp, lo lường nuôi con.
Người phụ nữ rất tự hào khi có người chồng đứng trong hang ngủ nghĩa quân. Hãy nghe lời thốt tuy thắm tình mà rắn rỏi :
- Có chồng là lính nghĩa binh,
Dẫu nghèo, dẫu cực vẫn thương mình, mình ơi ...!
Lấy chi cái lũ báo đời,
Chuyên nghề bán nước, phá đời, hại dân.
Giặc đến nhà là phải đánh. Đánh giặc trở thành một tiêu chuẩn đạo lý để phân biệt tốt xấu, đúng sai, phải quấy... Từ 4000 năm sử Việt, đối vớI người Việt đánh giặc giữ nước là một việc không bao giờ chối bỏ, không thể chối bỏ, không được phép chối bỏ, Mới 3 tuổi cũng đi đánh giặc (Thánh Gióng), đàn bà cũng đánh giặc (Hai Bà) và đã trở thành Anh Hùng Dân Tộc. Cho nên hai tiếng Quyết chiến của các bô lão đời Trần hô to vang dội trong Hội nghị Diên Hồng cứ vang vọng mãi trong trường kỳ lịch sử đấu tranh của dân tộc.
TRẦN BÌNH LONG
Gửi ý kiến của bạn