Hôm nay,  

“A Village Called Versailles” Một Ngôi Làng Tên Gọi Versailles

05/03/201300:00:00(Xem: 8133)
Trong các truyện thần thoại Hy Lạp có sự tích con chim phượng hoàng tái sinh từ chính tro tàn của nó. Tháng hai vừa qua chúng tôi đi dự một đại hội Giáo Dục Quốc Tế tại thành phố New Orleans và có dịp quan sát sự tái sinh của thành phố này. Năm 2005 cơn bão Katrina sập đến tạo ra sự vỡ đê, phần dưới thấp của thành phố bao gồm French Quarter bị ngập lụt dưới gần một thước nước và hơn 60 phần trăm dân chúng phải tản cư, trong đó có nhiều gia đình gốc Việt đã sinh sống tại vùng này từ 1975 trong lớp người tị nạn đầu tiên đến Hoa Kỳ. Hơn hai năm sau thiên tai Katrina, khi chúng tôi đi công tác ở New Orleans vào mùa hè năm 2007, mặc dầu thành phố lúc đó đã sau cơn bão và vỡ đê 2 năm; song khung cảnh vẫn còn hoang tàn đổ nát, ngay cả ở khu phố thương mại chính yếu là Canal Road và khu du lịch French Quarter vần còn nhiều cao ốc thương mại và nhà cửa bỏ hoang, đóng ván gỗ ngăn ngừa sự xâm nhập trái phép. Chúng tôi đã đến thành phố trước hai ngày, cùng với một số đồng nghiệp, ghi danh tình nguyện đến sơn quét, dọn dẹp một số trường tiểu học để chuẩn bị đón chờ học sinh trở về trong niên khóa sau hè. Khi lái xe đi quanh thành phố vào khu gia cư, đa số nhà cửa vẫn còn bỏ hoang, trên tường nhà vẫn còn những vạch chéo với con số ghi lại số người đã được cứu thoát, không còn đèn đường và ban đêm thì an ninh không đảm bảo . Một không khí ảm đạm bao trùm cả thành phố ngay cả giữa mùa hè oi bức với ánh nắng chói chang. Nhân viên khách sạn Sheraton trên đường Canal Road khuyên chúng tôi cẩn thận đề phòng, không nên ra ngoài đến các khu xa khách sạn sau khi màn đêm buông xuống. Gần tám năm sau trận bão Katrina, thành phố New Orleans đã rũ tan màu xám ảm đạm để khoác lên một sinh khí đầy màu sắc rực rỡ, tươi vui và nhộn nhịp. Cách đây vài tuần, cả quốc gia này theo dõi trận chung kết American Football - Superbowl 47- diễn ra tại Superdom ở New Orleans, nơi chốn mà hơn 7 năm trước đây là nơi tạm trú của nạn nhân cơn bão Katrina đưa tới sự vỡ đê khiến thành phố chìm sâu gần một thước dưới biển nước . Dân chúng và du khách kéo nhau ra đường chật cứng, một số đường phố phải được ngăn lại để chỉ dành cho khách bộ hành . Một tuần sau đó thì các nhóm du khách khác lại lũ lượt về New Orleans để vui chơi theo tập tục Mardi Gras, tận hưởng các thú vui trần tục trước khi bước vào mùa ăn chay, hãm mình.

Theo truyền thống, du khách đã tới New Orleans thì phải viếng "Phố Tây" (French Quarter), "Chợ Tây" (French Market) và một trong những nơi quen thuộc mà du khách phải dừng chân là quán Café Du Monde để thưởng thức tách café sữa và nhâm nhi bánh beignet (một loại như bánh tiêu chiên dòn và được rắc đường bột màu trắng lên trên). Tuy quán café này chỉ bán có hai món nhưng lúc nào cũng thu hút rất nhiều du khách. Khoảng 10 năm trước đây rất khó xin việc làm tiếp viên tại Café du Monde vì quán luôn đông khách nên có "tiền tip" khá. Sau cơn bão Katrina, chỉ có một nửa dân cư đã bắt buộc phải tản cư, nay hồi hương, một nửa bỏ rơi thành phố và lập nghiệp nơi khác; do đó tạo ra sự thiếu thốn dân số, không cung ứng nổi nhân viên cho các dịch vụ thương mại liên quan đến nhà hàng, khách sạn. Mùa hè năm 2007 khi bước chân vào quán thì chúng tôi thấy đa số nhân viên là các thanh thiếu niên gốc Việt . Khi hỏi chuyện thì được biết các em là sinh viên các trường đại học quanh đó, mùa hè về thăm gia đình và làm thêm để dành tiền tiêu trong năm học. Gia đình các em cũng đã đi xa tị nạn bão Katrina nhưng sau đó trở về lại. Kỳ này trở lại Café Du Monde thì chúng tôi nhận thấy các tiếp viên đa số là gốc Việt, phái nữ tuổi trung niên. Khi nói chuyện với chị Thanh trong lúc chị lấy order cà phê và bánh beignet, chúng tôi được biết về mô hình hệ thống điều hành thương mại tại tiệm này: tiếp viên lấy order, ra quầy mua và tự tiếp viên phải lấy tiền mình trả trước, sau đó đưa tới khách hàng và tự thanh toán phi tổn với thân chủ vào cuối bữa ẩm thực. Cũng trong câu chuyện hàn huyên chúng tôi được biết gia đình của chị Thanh qua Hoa Kỳ năm 1996, sau 17 năm vào thời điểm hiện tại thì chị có 2 cháu đang học trường thuốc và vài năm nữa sẽ trở thành bác sĩ y khoa. Các chị khác cũng có những hoàn cảnh tương tựa như thế - con cái chăm chỉ được học bổng, học hành thành công, các chị chỉ làm phụ thêm gia đình chút đỉnh.
new_orleans_cafe_du_monde
Café du Monde tại New Orleans.

Người Việt tị nạn cũng như những con chim phượng hoàng, đã bao lần bị đốt cháy qua nhiều lần thử thách nhưng sau đó đều vươn lên và tái sinh huy hoàng hơn. Cách trung tâm thành phố New Orleans khoảng hơn 20 phút lái xe về hướng đông là “Làng Versailles” – một nơi định cư của người Việt tị nạn, hầu hết là Công Giáo, sống trong họ đạo Nữ Vương – Mary Queen of Vietnam. Lớp người đầu tiên định cư tại đây là do chính sách Indochina Migration and Refugee Assistance Act của liên bang Hoa Kỳ với sự cộng tác của Cơ Quan Công Giáo Hoa Kỳ (U.S. Catholic Charities) và the Associated Catholic Charities of New Orleans. Nhóm người Việt tị nạn đầu tiên, khoảng 1,000 người, sống trong một khu gia cư do chính phủ liên bang trợ cấp (federally subsidized housing) . Các đợt tị nạn và di dân sau đó đưa con số người Việt vùng này lên tới 5,000 người vào cuối thập niên 1990 và khoảng 8,000 vào năm 2005. Những người gốc Việt này đã tạo một tiếng vang lớn trong vùng New Orleans và toàn quốc Hoa Kỳ vì họ là những người tị nạn Katrina trở về đầu tiên. Theo thống kê của thành phố thì vào mùa xuân năm 2007, người gốc Việt vùng Versailles trở về trên 90 phần trăm trong khi dân cư toàn thành phố chỉ có gần 50 phần trăm dân hồi cư. Tiếp theo đó là sự tranh đấu của người dân gốc Việt vùng Versailles vì hội đồng thành phố định biến một khu đất trống cách làng Versailles chỉ có hai dặm (2 miles) – thành một bãi để chứa các đồ phế thải ra sau cơn bão – hurricane debris landfill – Sự hợp quần tranh đấu nối kết các thế hệ, cao niên, trung niên, và thanh thiếu niên gốc Việt với sự lãnh đạo và hổ trợ của Linh Mục Nguyễn Thế Viễn, bà nghị viên thành phố – city councilwoman - Cynthia Willard-Lewis, và luật sư Joel Watzer đã đem lại thắng lợi cho người dân gốc Việt vùng Versailles. Câu truyện và các diễn tiến được làm thành cuốn phim tài liệu có tên “A Village Called Versailles” – “Một Ngôi Làng Tên Gọi Versailles” – Cho đến nay thì làng Versailles đã vững mạnh. Tất cả các căn nhà đã được sửa chữa đẹp hơn và chắc chắn hơn trước. Các cửa tiệm tạp hóa và chợ thực phẩm khu Việt Nam đã tấp nập trỏ lại. Các vườn rau xanh mướt đã được trồng lại và các buổi họp chợ rất đông người. Đặc biệt là các chương trình học Việt Ngữ rất đông học sinh do các thầy cô là các phụ huynh và thanh thiếu niên trẻ tình nguyện. Ngôi nhà thờ Nữ Vương Mẹ Việt Nam đã được tân trang và Tết Nguyên Đán lúc nào cũng có pháo nổ dòn dã.
new_orleans_gs_nl_kim_oanh_cafe_workers
Các nhân viên gốc Việt và giáo sư Nguyễn Lâm Kim Oanh tại Café du Monde.
Trong một bài phân tích có tính cách hàn lâm (academic), các học giả tìm hiểu "hiện tượng thành công" của người Việt vùng Versailles đã đưa ra các yếu tố chính:

- Thứ nhất, đa số người dân tị nạn vùng Versailles xuất thân là Công Giáo di cư từ miền Bắc - sau khi hiệp định Geneve ký kết vào năm 1954 chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17 với sông Bến Hải là ranh giới - định cư vùng Phước Tĩnh, Bà Rịa Vũng Tàu , họ có một lịch sử chung nối kết.

- Thứ hai, chính vị tổng giám mục (Archbishop) Philip M. Hannan của New Orleans đã đích thân vào thăm trại tị nạn Camp Pendleton tại Nam Cali vào tháng 5 năm 1975 và đã mời gọi các vị linh mục Việt Nam dẫn đầu nhóm giáo dân di cư của họ về vùng Versailles định cư , sau khi vị tổng giám mục đã xin hội đồng thành phố cấp cho một số nhà cửa để đón tiếp người tị nạn Việt Nam.

- Thứ ba, tinh thần phấn đấu của những người Việt đã phải trải qua hai lần di cư, từ miền Bắc xuống miền Nam năm 1954, rồi từ Việt Nam sang Hoa Kỳ năm 1975 – và phải tị nạn lần thứ ba vì bão Katrina năm 2005- nên người New Orleans gốc Việt xem đây chỉ là một cản trở tuy to lớn không đáng kể.

- Sau cùng thì khi sự hiện diện của người gốc Việt hồi cư sau bão Katrina được mọi người biết tới, các cơ quan chính quyền đã có nhiều chương trình bồi thường cho các gia chủ để họ có thể sửa sang, xây cất lại nhà cửa của họ đã bị tàn phá. Một số sinh viên gốc Việt đã tình nguyện hoạt động với các cơ quan chính quyền giúp cho dân cư làng Versailles mau chóng nhận được các số tiền trợ cấp thỏa đáng, để có thể tái xây cất kịp thời.

Nói tóm lại người gốc Việt làng Versailles vùng New Orleans có một ý chí phấn đấu khắc phục gian khổ, cùng chia sẻ một niềm tin tôn giáo và xuất xứ cùng một địa phương, chấp nhận sự hướng dẫn tinh thần của một vị chủ chiên, được sự trợ giúp của các cơ quan trong hệ thống Công Giáo, và của chính quyền địa phương cùng liên bang, đã như những con phượng hoàng, vươn lên từ đống tro tàn, trải qua những gian lao thử thách sau bão tố và trở thành những người thành công, trả ơn cho đất nước Hoa Kỳ một cách rõ rệt và hữu hiệu nhất qua thế hệ con cháu học hành thành tài hữu dụng, có nghề nghiệp vững chắc đóng góp lại cho xã hội.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.