Hôm nay,  

Nelson Mandela: Biểu Tượng Của Hy Vọng Và Hòa Giải

7/5/201300:00:00(View: 14198)
Cựu Tổng thống Nam Phi Nelson Mandela, 94 tuổi, đang trong tình trạng sức khoẻ nguy kịch từ ba tuần qua. Bước vào những thời gian cuối của đời người, khi ra đi, ông sẽ để lại cho thế giới sự cảm phục và nhiều bài học.

Là biểu tượng của sự quyết tâm chống kỳ thị, đòi bình quyền cho nhân dân Nam Phi qua một cuộc tranh đấu kéo dài, với giá ông đã phải trả là gần ba thập niên trong các nhà tù.

Nam Phi nổi tiếng sản xuất nhiều vàng, kim cương và là quốc gia phát triển nhất châu Phi. Đất nước này thời apartheid có hơn 30 triệu dân, đa số da đen, người da trắng chỉ chiếm 14% nhưng nắm hết mọi quyền chính trị.

Đại diện cho African National Congress (ANC), Nelson Mandela được bầu chọn làm tổng thống Nam Phi năm 1994 sau khi đảng này nhận được 63% số phiếu trong một cuộc tổng tuyển cử tự do dân chủ có sự tham dự của mọi sắc dân, nhiều đảng chính trị. Ông là tổng thống da đen đầu tiên sau khi chính sách kỳ thị chủng tộc – apartheid – được bãi bỏ và những cải cách chính trị tại Nam Phi được ban hành.

Đến năm 1990 ANC vẫn bị đặt ngoài vòng pháp luật và Nelson Mandela còn ở trong tù. Tháng 2-1990 Tổng thống F.W. de Klerk mới ký lệnh cho ANC được công khai hoạt động và trả tự do cho Nelson Mandela sau 27 năm giam tù vì tranh đấu chống kỳ thị mầu da, chống đàn áp và đòi bình quyền cho người da đen, có những lúc với chủ trương bạo động. Sau khi ra tù ông đã chọn đường lối hoà giải để giải quyết những vấn đề chính trị sắc tộc của Nam Phi.

ANC thường được biết đến là một phong trào với mục đích giải phóng Nam Phi khỏi ách cai trị của người da trắng. Ra đời từ năm 1912, hoạt động cho đến năm 1961 thì chính thức bị cấm vì có những lãnh đạo chủ trương bạo động qua phá hoại, khủng bố, chiến tranh du kích, phát động cách mạng mở rộng và nhất quyết đòi đuổi người da trắng ra khỏi Nam Phi.

Là người trong ban lãnh đạo ANC, Mandela đã bị chính quyền qui kết nhiều tội, bao gồm “phản quốc”, “phá hoại” và “tiến hành lật đổ chính phủ”.

Nelson Mandela sinh ngày 18-7-1918, khi đó Liên hiệp Nam Phi đã thành hình và có quyền tự trị nhưng vẫn đặt dưới sự bảo hộ của Vương quốc Anh với chính quyền do người da trắng nắm giữ.

Chính quyền Nam Phi với chủ trương kỳ thị sắc tộc – apartheid – đã có những chính sách không cho người da đen làm một số công việc, phải sống trong những khu vực dành riêng (township), không được kết hôn với người da trắng, không được dùng tiện nghi công cộng chung với người da trắng, không được làm chủ căn nhà, không được quyền bầu cử hay ứng cử.

Gia đình Nelson Mandela thuộc dòng hoàng tộc Thembu. Sinh ở làng Qumu, là con của một trưởng tộc, được đặt tên “Rolihlahla” có nghĩa “người tự chuốc rắc rối vào thân”. Tuổi thơ của Mandela cũng như bao đứa trẻ khác là thích nô đùa nơi đồng quê, trông nom gia súc, lội sông, tắm suối.

Mồ côi cha từ thuở niên thiếu, ông sống với gia đình chú bác và được học hành để chuẩn bị làm cố vấn cho trưởng tộc, với tương lai nối nghiệp cha. Những bài học đầu tiên về dân chủ ông học được là qua sinh hoạt bộ tộc, nơi mọi người đều có quyền phát biểu dù đó là một binh lính, bác sĩ hay một nông dân, người bán hàng.

Sau khi tốt nghiệp phổ thông từ một trường đạo của giáo sĩ tin lành ở Healdtown, năm 1938 Mandela theo học Đại học Fort Hare. Ở đó ông hoạt động chính trị sinh viên, tham gia tẩy chay bầu cử nên bị đuổi học.

Ông lên Johannesburg học luật. Sau khi tốt nghiệp, năm 1942 ông và một người bạn mở văn phòng ở thủ đô, là công ty luật đầu tiên do người da đen làm chủ, chuyên bênh vực cho quyền lợi của dân da đen.

Năm 1944 ông gia nhập ANC và khởi xướng thành lập tổ chức Liên hiệp Thanh niên cho phong trào. Năm 1950 ông được bầu vào ủy ban điều hành ANC.
buivanphu_20130702_mandela_h01_sach_resized
Tác phẩm với những bài viết và phát biểu của Nelson Mandela. (ảnh Bùi Văn Phú)
ANC chủ trương chống lại chính sách kỳ thị bằng những cuộc tẩy chay, đình công, bất tuân dân sự và cả những biện pháp bạo động như đặt bom, phá hoại khi chính sách kỳ thị ngày một trở nên khắc khe và chính quyền đã dùng vũ khí để trấn áp những người biểu tình.

Là lãnh đạo của phong trào, năm 1956 Mandela và cả trăm đồng chí đã bị buộc tội phản quốc. Vụ xử án kéo dài 5 năm, cuối cùng ông và các đồng chí được tuyên bố vô tội. Thời gian đó đem lại cho Mandela nhiều điều không vui, ông không được hành nghề luật và người vợ đầu cũng đã bỏ đi.

Sau vụ án, ANC bị cấm hoạt động vì thế ông phải sống lẩn trốn, nhưng vẫn tiếp tục tranh đấu trong bí mật đòi hỏi sửa đổi hiến pháp, cải cách chính trị cho mọi công dân được quyền bình đẳng.

Không được công khai hoạt động tại Nam Phi, nhiều lãnh đạo của tổ chức đã ra nước ngoài tìm sự yểm trợ quốc tế cho phong trào. Năm 1962 ông bị bắt, bị buộc tội “rời nước bất hợp pháp” và “khích động nổi loạn” và bị xử án 5 năm tù.


Tự biện minh trước toà, Nelson Mandela phát biểu: “Tôi bị kết án, theo luật, là một tội phạm, không phải vì những gì tôi đã làm mà vì những gì tôi đại diện.”.

ANC từ năm 1961 đã lập ra một phân bộ riêng gọi là Umkhonto we Sizwe, có nghĩa là “Mũi nhọn của Quốc gia”, hoạt động với chủ trương bạo động chống chính quyền.

Năm 1964, một lần nữa Mandela và thành phần lãnh đạo phong trào bị cáo buộc “phá hoại” và “có kế hoạch lật đổ nhà nước” trong vụ án Rivonia. Ông và tám lãnh đạo của ANC bị kết án tù chung thân.

Nelson Mandela đã phải trải qua 27 năm trong các nhà tù Nam Phi, từ Robben Island, Pollsmoor đến Victor Verster.

Với quyết tâm và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn cho Nam Phi, ông đã dành thời gian trong tù để truyền đạt ước vọng tự do, niềm tin vào sự bình đẳng “mỗi người dân một lá phiếu” cho những tù nhân trẻ bị bắt giam vì chống đối chính quyền. Nhà tù Robben Island nơi ông trải qua 18 năm bị giam cầm và lao động cực khổ được những nhà tranh đấu gọi là “Đại học Mandela”.

Thập niên 1980 nổi lên nhiều vụ biểu tình, nổi loạn và đình công lớn với cả triệu người tham gia. Hàng vạn người bị bắt giữ mà không hề xét xử. Chính quyền của Tổng thống P.W. Botha ban bố tình trạng an ninh khẩn trương, dùng vũ khí tấn công vào những khu dân cư da đen làm nhiều người chết.

Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc ra quyết nghị cấm vận vũ khí đối với Nam Phi.

Nhiều lãnh đạo quốc gia, đại diện các tổ chức quốc tế kêu gọi Nam Phi bãi bỏ chính sách kỳ thị, trả tự do cho Nelson Mandela. Quốc hội Hoa Kỳ ban hành đạo luật trừng phạt kinh tế đối với Nam Phi. Công ty lớn của nhiều quốc gia rút đầu tư để tạo sức ép.

Thập niên 1980, sân trường đại học Mỹ thường có biểu tình chống chính sách apartheid.

Trong chuyến viếng thăm Nam Phi vừa qua, Tổng thống Barack Obama và gia đình đã ra đảo viếng nhà tù Robben nơi giam Mandela nhiều năm.

Nói chuyện với sinh viên Đại học Cape Town hôm 30-6-2013, Tổng thống Barack Obama nhắc đến sự kiện khi còn là sinh viên ở California ông đã tham gia biểu tình ủng hộ dân Nam Phi và biết đến tù nhân Madila, là tên người châu Phi dùng để gọi Nelson Mandela.
buivanphu_20130702_mandela_h2a_resized
Mandela Parkway ở Oakland, California. (ảnh Bùi Văn Phú)
Thời đó, sinh viên từ Long Beach, Los Angeles lên đến San Francisco, Berkeley thường xuyên xuống đường phản đối chế độ apartheid. Các thành phố Oakland, Berkeley và San Francisco đã biểu quyết thông qua luật rút quỹ đầu tư khỏi những công ty giao thương với Nam Phi. Công nhân bến cảng Oakland từ chối bốc rỡ hàng nhập vào Mỹ từ nước này.

Phản đối quốc tế và quyết tâm tranh đấu của người dân đã buộc chính quyền Nam Phi phải nhượng bộ, đáp ứng những đòi hỏi của ANC.

Sau khi được trả tự do vào đầu năm 1990, mùa hè Nelson Mandela đi thăm một số quốc gia, trong đó có Hoa Kỳ, để cám ơn lãnh đạo và công dân các nước đã luôn nghĩ đến dân tộc Nam Phi và đòi tự do cho ông.

Tại những thành phố lớn ở Mỹ từ New York, Atlanta qua Los Angeles, Oakland ông đã được nhiều vạn người nghênh đón trong vòng bảo vệ an ninh chặt chẽ vì sợ có kẻ muốn ám sát. Sau lãnh tụ dân quyền da đen người Mỹ là Mục sư Martin Luther King Jr., Nelson Mandela là người da đen thứ nhì đã thu hút được cảm tình của dân chúng Mỹ.

Ông kêu gọi các nước tiếp tục biện pháp trừng phạt kinh tế cho đến khi có những cải cách chính trị thực sự để đem đến sự bình đẳng cho người dân Nam Phi.

Về nước, Nelson Mandela, đại diện cho ANC, và Tổng thống F.W. de Klerk đã thương thảo và đưa ra những chính sách hoà giải, cải cách chính trị. Năm 1993 Mandela và de Klerk được trao giải Nobel Hoà bình.

Tháng 4-1994 Nelson Mandela được bầu chọn làm tổng thống da đen đầu tiên cho Nam Phi. Ông lãnh đạo Nam Phi một nhiệm kỳ cho đến năm 1999.

Tháng 11-2009, Đại hội đồng Liên Hiệp quốc đã biểu quyết chọn ngày 18-7, ngày sinh của ông, là “Mandela Day” để ghi nhớ những đóng góp của ông cho hoà bình thế giới.

Tại nhiều thành phố như London ở Anh quốc, Caracus ở Venezuela, Rio de Janeiro ở Brazil, New York và Oakland ở Mỹ nay có những con đường, công viên mang tên Mandela.

Trong chuyến công du châu Phi vừa qua, Tổng thống Barack Obama đã gọi Nelson Mandela là một anh hùng.

Tại Đại học Cape Town, Tổng thống Mỹ phát biểu: “Tinh thần của Mandela không bao giờ có thể bị giam hãm” và ca ngợi những tiến bộ của Nam Phi, vì trong hai thập niên qua, đây là nơi mà “một tù nhân có thể trở thành tổng thống”.

Cuộc đời của Nelson Mandela không chỉ là biểu tượng tranh đấu cho sự bình đẳng, chống áp bức mà còn là biểu tượng của hy vọng và hoà giải.

© 2013 Buivanphu.wordpress.com

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.