Hôm nay,  

Khối ASEAN và Nhóm BRICS

05/09/201300:00:00(Xem: 9620)
Việt Nam là nước đáng lo nhất vì có dự trữ ngoại tệ mỏng nhất, bị nhập siêu và nạn đầu cơ đi cùng nguy cơ lạm phát...

Tuần này, bên lề Thượng đỉnh của khối G-20, năm quốc gia trong nhóm BRICS sẽ thảo luận về việc lập ra một quỹ ngoại tệ trị giá 100 tỷ đô la để cấp cứu các nước nhất thời thiếu thanh khoản khi tư bản tài chính rút khỏi thị trường các nước đang phát triển. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về đề nghị đó nhưng với trọng tâm là chú ý đến tình hình Đông Nam Á. Xin quý thính giả theo dõi cách Vũ Hoàng nêu vấn đề với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa như sau.

Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, từ Tháng Năm vừa qua, khi Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ cho biết là sẽ đảo ngược quyết định bơm tiền kích thích kinh tế vì tình hình đã khả quan hơn, lãi suất tại Mỹ đã tăng. Đi cùng sự kiện là đà tăng trưởng thiếu khả quan của các nền kinh tế đang phát triển, biến cố ấy tại Hoa Kỳ dẫn tới một hậu quả là tư bản tài chính rút khỏi các thị trường đang phát triển như diễn đàn này đã tìm hiểu vào chương trình tuần trước. Vì tư bản triệt thoái như vậy, nhiều quốc gia mới bị nạn thiếu thanh khoản. Tuần này, có tin là bên lề thượng đỉnh của 20 nền kinh tế mạnh nhất, tức là khối G-20, được họp tại thành phố St. Petersburg của Nga, nhóm BRICS sẽ đề nghị lập ra một quỹ dự phòng trị giá 100 tỷ đô la để cấp cứu xứ nào bị thiếu thanh khoản. Xin ông trình bày cho bối cảnh của đề nghị này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng đây là đề mục điển hình của chuyện "kinh tế cũng là chính trị". Trước hết, chúng ta hãy tìm hiểu về bối cảnh của vấn đề.

- Từ năm 1999, các tổng trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương của vài chục nền kinh tế có sản lượng cao nhất địa cầu vẫn có hội nghị hàng năm để thảo luận về tình hình kinh tế tài chính và yêu cầu phối hợp về chính sách. Đó là nguyên ủy của nhóm G-20, gồm 19 quốc gia và Liên hiệp Âu châu. Từ vụ khủng hoảng tài chính năm 2008 rồi nạn Tổng suy trầm, lãnh đạo ba nước là Anh, Pháp, Mỹ mới đề nghị hội nghị hàng năm ở cấp nguyên thủ quốc gia, gọi đó là "Thượng đỉnh của Khối G-20", năm nay họp tại Liên bang Nga, năm tới sẽ họp tại Úc, qua năm 2015 sẽ họp tại Cộng hoà Thổ Nhĩ Kỳ, tức là Turkey. Về bối cảnh thì đây là việc mở ra khỏi nhóm G-7, là bảy nước công nghiệp Tây phương, với sự tham gia của các nền kinh tế đã phát triển vững mạnh để có một khuôn khổ thảo luận và phối hợp rộng lớn hơn.

- Thứ hai, trong các nước đang phát triển, có bốn nước muốn lập ra khuôn khổ hợp tác khác, là nhóm B.R.I.C. là tên tắt gọi theo Anh ngữ của Brazil, Liên bang Nga, Ấn Độ và Trung Quốc. Từ đầu thì đây chỉ là sáng kiến đặt tên của một doanh gia Mỹ để ca ngợi bốn xứ này, có thể là để quảng cáo cho việc đầu tư vào các thị trường đó. Nhưng bốn nước đó lại tưởng thật và còn có tham vọng trở thành thế lực kinh tế toàn cầu, với việc lập ra một loại ngoại tệ khác để thay thế đồng Mỹ kim. Từ năm 2010, bốn xứ này mời Cộng hòa Nam Phi tham dự vì vậy mới có tên là B.R.I.C.S. Cuối Tháng Ba năm ngoái tại Thượng đỉnh bên Ấn Độ, họ dự tính lập ra một ngân hàng phát triển với số vốn chừng trăm tỷ đô la để tài trợ các nước nghèo và thực tế là nhằm cạnh tranh với Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Cuối Tháng Ba năm nay, tại Thượng đỉnh ở Nam Phi, nhóm này lại đề nghị lập ra một quỹ dự trữ ngoại tệ, cũng với 100 tỷ đô la, để giúp các nước khỏi bị chấn động tài chính vì thiếu ngoại tệ.

Vũ Hoàng: Thưa ông, xét về bối cảnh như ông vừa trình bày thì, thứ nhất các nước này có thực lực kinh tế không, thứ hai là họ có khả năng phối hợp để đạt mục tiêu hay không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ là quốc gia nào cũng muốn bảo vệ quyền lợi và tranh thủ ảnh hưởng của mình, nhưng phải dựa trên thực tế hơn là cảm quan. Các nước đó đã có ảo giác phát triển vững mạnh nhờ sự ca tụng của thiên hạ mà tưởng thật cho tới khi đụng vào thực tế là kinh tế của họ đều sa sút từ gần hai năm nay và vẫn lệ thuộc vào các thị trường Âu-Mỹ chứ chưa thể tách rời và phát triển tự túc, chưa kể là Nam Phi vẫn còn quá nghèo và chẳng có thực lực mà được mời vào vì là một nước Phi Châu da đen. Thứ hai là giữa các nước đó với nhau thì cũng có nhiều mâu thuẫn và tranh chấp, thí dụ như tranh chấp về mậu dịch giữa Trung Quốc với Brazil, mâu thuẫn về an ninh giữa Trung Quốc với Ấn Độ, hay tranh chấp về tư thế giữa Nga với Trung Quốc.

- Then chốt nhất, hai xứ độc tài là Nga và Trung Quốc đều có ẩn ý chính trị là nâng tầm ảnh hưởng quốc tế để ngầm chống lại các nước dân chủ, là Hoa Kỳ, Âu Châu và cả Nhật Bản. Nhưng chẳng phải vì muốn giới hạn ảnh hưởng của Hoa Kỳ hoặc các định chế tài chính quốc tế do Tây phương lập ra mà họ đã có thể hợp tác chặt chẽ với nhau khi mà xứ nào cũng cần đến tư bản hay kỹ thuật của Tây phương. Việc hợp tác có hiệu quả hay không khiến chúng ta liên tưởng đến một tiền lệ là "Sáng kiến Chiang Mai"...

Vũ Hoàng: Thưa ông, "Sáng kiến Chiang Mai" đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ta nhớ lại vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ tại Thái Lan năm 1997 rồi lây lan thành khủng hoảng kinh tế Đông Á năm 97-98. Khi đó, các nước lâm nạn bị thất thoát ngoại tệ vì tư bản tài chính tháo chạy cũng tương tự như ngày nay. Vì thế, tại hội nghị năm 2000 của Ngân hàng Phát triển Á châu ADB ở thành phố Chiang Mai của Thái, 10 nước của Hiệp hội ASEAN là các quốc gia Đông Nam Á cùng ba nước đối tác của ASEAN là Nhật, Trung Quốc và Nam Hàn mới đưa ra sáng kiến là từng nước ký kết với nhau một hiệp ước trao đổi ngoại tệ để nếu nhất thời mà thiếu ngoại tệ thì có thể tạm vay trong quỹ đó. Từ đấy đã có 16 hiệp ước song phương giữa từng nước với nhau. Đến năm 2009, sau vụ khủng hoảng tài chính Âu-Mỹ, nhóm ASEAN+3 này mới khai triển và đa phương hoá "Sáng kiến Chiang Mai Mở rộng" bằng cách lập ra một quỹ dự phòng trị giá 120 tỷ đô la để xứ nào cần ngoại tệ thì có thể vay trong đó.


Vũ Hoàng: Theo như chúng ta hiểu thì thế giới đã có Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF với chức năng cấp cứu và ổn định các thị trường tài chính khi có biến động. Thế thì vì sao lại có Sáng kiến Chiang Mai của riêng các nước châu Á với nhau?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Câu hỏi đó hấp dẫn vì dẫn ta đến vụ khủng hoảng thanh khoản hiện nay. Quỹ IMF có thể cấp cứu một nước lâm nạn nhưng nhìn sâu hơn vào lý do vì sao lâm nạn nên đòi hỏi nhiều điều kiện cải cách cơ chế rất khắt khe. Chính điều kiện cải tổ này mới khiến các nước bị khủng hoảng tài chính lãnh thêm hậu quả bất lợi về chính trị nếu phải thi hành kỷ luật ngân sách hay biện pháp khắc khổ. Vì vậy mà nhiều nước muốn tránh và khi đó Nhật Bản nhân tiện đưa ra sáng kiến cấp cứu trong khuôn khổ Á châu với nhau và có gặp sự chống đối của Hoa Kỳ lẫn Quỹ IMF. Thuần về kinh tế thì người ta cho rằng quốc gia lâm nạn chỉ nhất thời thiếu thanh khoản nên cần được châm thêm tiền để vượt qua sóng gió trong ngắn hạn. Trung Quốc cũng vin vào đó để mở ra sáng kiến khác nhằm giới hạn ảnh hưởng của Hoa Kỳ và Tây phương.

Vũ Hoàng: Thưa ông, để thính giả hiểu ra cơ sự phức tạp này và đối chiếu với hiện tại, chúng tôi xin tạm tóm lược như sau. Đầu tiên, các nước đang phát triển đã tiếp nhận rất nhiều tư bản tài chính của khối công nghiệp hóa Tây phương và đạt mức tăng trưởng cao. Nhưng, khi thị trường chuyển động và tư bản triệt thoái thì nhiều nước lại thiếu ngoại tệ và vì vậy mới có Sáng kiến Chiang Mai với 120 tỷ đô la và bây giờ có sáng kiến của nhóm BRICS với 100 tỷ. Dường như đằng sau các sáng kiến này còn có cả suy tính về chính trị nhằm giảm thiểu ảnh hưởng của Quỹ IMF hoặc của các nước Tây phương, đứng đầu là Hoa Kỳ. Nói cách khác, thưa ông, có phải lồng trong vấn đề kinh tế còn có yếu tố chính trị hay chăng?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng vậy mà lại rắc rối hơn vậy vì còn có vấn đề chính sách.

- Sau vụ khủng hoảng 97-98, các nước Đông Á đều biết thân biết phận mà cố thiết lập một khối dự trữ ngoại tệ dồi dào để không bị thiếu hụt ngoại tệ. Nhờ vậy mà trong 15 năm, từ năm 97 đến năm ngoái, khối dự trữ ngoại tệ của 10 nước trong khối ASEAN đã tăng gấp bốn, từ 200 lên đến 800 tỷ đô la, bình quân là đủ cho bảy tám tháng nhập khẩu. Thứ hai nữa, họ thi hành một chính sách ngoại hối linh động chứ không neo giá đồng bạc vào đồng Mỹ kim theo một tỷ giá nhất định để cuối cùng bị đứt neo mà khủng hoảng. Đấy là bài học tích cực từ vụ khủng hoảng.

- Nhưng nhiều quốc gia thật ra vẫn theo đuổi chiến lược tiêu cực cố hữu là lấy xuất khẩu làm đầu máy tăng trưởng mà không thấy ra nhược điểm vì năm năm qua còn nhận được tư bản tài chính từ các thị trường Tây phương. Luồng tư bản đó tạo ra sức đầu tư rất mạnh và khoả lấp sự thiếu cân đối ở trong. Nói chung, trương mục vãng lai của các nước ASEAN bị thâm hụt mà họ chả thấy vấn đề vì vẫn nhận được tư bản nước ngoài. Bây giờ khi nguồn tư bản đó bị cạn thì nhiều xứ mới gặp vấn đề, nghiêm trọng nhất là Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines. Vì thế, khi lãi suất tại Mỹ bắt đầu tăng và đô la lên giá thì đồng nội tệ của các nước mới mất giá. Chúng ta trở lại chuyện viển vông của các nước trong nhóm BRICS vì sụt giá nặng nhất chính là đồng bạc của Brazil và Ấn Độ! Đây là ta chưa nói đến một nguy cơ khác là nạn lạm phát, có thể sẽ bùng lên rất mạnh.

Vũ Hoàng: Nói cách khác, thưa ông, ta có vấn đề của nhiều nước Á châu thuộc cơ cấu lâu dài, và các vấn đề này có thể phát tác vì sự chuyển động ngược của luồng tư bản nhưng mọi sự lại bị khoả lấp đằng sau khẩu hiệu chống Mỹ của một số quốc gia. Có phải là như vậy không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ rằng ta không nên quên là nhiều nước cứ ôm tham vọng chống Mỹ hoặc truất phế vị trí ngoại tệ mạnh của đồng đô la Mỹ mà không thấy ra sự yếu kém trong cơ cấu kinh tế. Một thí dụ rất nóng là tuần qua, IMF vừa công bố một báo cáo theo đó, Trung Quốc có thể bị nạn tẩu tán tài sản rất nặng nếu họ giải tỏa chế độ kiểm soát tư bản. Muốn có đồng bạc khả dĩ cạnh tranh với đồng đô la, đồng Euro hay đồng Yen của Nhật, thì trước hết phải có chính sách ngoại hối tự do, là chuyện chưa thể có tại Trung Quốc. Vậy mà người ta cứ đòi lung lạc nước khác với những sáng kiến hão huyền nhằm tranh giành vị thế với Hoa Kỳ!

Vũ Hoàng: Câu kết luận, thưa ông, Việt Nam nên làm gì trong lúc này?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Tôi cho là khi Mỹ kim lên giá thì đồng nội tệ của mình sụt giá và kinh tế sẽ bị biến động lớn. Người ta lầm tưởng rằng khi đồng bạc giảm giá thì sẽ dễ xuất khẩu hơn mà quên rằng hoá đơn nhập khẩu sẽ tăng và lạm phát lại tái diễn. Việt Nam là nước đáng lo nhất vì có dự trữ ngoại tệ mỏng nhất, bị nhập siêu và nạn đầu cơ đi cùng nguy cơ lạm phát với một hệ thống ngân hàng yếu kém có thể sụp đổ vì nợ xấu và nạn tẩu tán tài sản trầm trọng. Việt Nam cần cải cách khi kinh tế sẽ lại sa sút trong mấy năm tới, nên phải chú ý vào hoàn cảnh của mình trong khối ASEAN chứ đừng nghe lời mộng mị của các nước cứ nêu ra khẩu hiệu chống Mỹ và đổ lỗi cho Hoa Kỳ về mọi nhược điểm của mình.

Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.