Hôm nay,  

Năm Năm Sau Khủng Hoảng Tài Chánh

25/09/201300:00:00(Xem: 11553)
Khủng hoảng tài chính 2008: Rủi ro vẫn tồn tại...

Năm năm sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, các ngân hàng Mỹ chẳng những đã thoát hiểm mà còn giàu thêm. Nhưng rủi ro tai họa vẫn tồn tại vì ngành tài chính không an toàn hơn xưa. Sự phục hồi nhanh chóng của các ngân hàng Mỹ là một tin vui, nhưng hiện vẫn còn quá nhiều mối đe dọa tiềm tàng.

Vào tháng 7 vừa qua, hàng loạt các ngân hàng Mỹ thông báo kết quả hoạt động. Tất cả các ngân hàng lớn ở bên kia bờ Đại Tây Dương đều làm ăn có lời. JP Morgan Chase, ngân hàng lớn nhất của Mỹ thông báo trong quý hai, lãi 6,5 tỷ đô la. Trong vòng một năm, khoản lãi của ngân hàng này tăng 31 %. Về phần ngân hàng đầu tư Morgan Stanley thì cũng trong quý 2/2013 đã thu vào một khoản tiền lãi hơn 800 triệu đô la, doanh thu lên tới 8,3 tỷ.

Về phần Bank of America, tập đoàn ngân hàng từng suýt bị xóa tên sau cơn bão tài chính 2008 thì chỉ 5 năm sau tai họa, đã hoàn toàn bình phục. Tiền lãi trong quý 2/2013 tăng 70%, đạt 3,6 tỷ đô la. Còn đối với Citygroup từng bị coi là nạn nhân nghiêm trọng nhất của khủng hoảng tín dụng địa ốc năm 2007 thì lãi của tập đoàn ngân hàng này trong vỏn vẹn ba tháng cũng đã được tính bằng bạc tỷ. Nhìn rộng ra hơn, tất cả các ngân hàng lớn ở Hoa Kỳ đều đang trong chu kỳ thịnh vượng và mức lời của họ vượt ngoài sự chờ đợi.

Thoạt nhìn, sự phục hồi nhanh chóng và vững mạnh của ngành ngân hàng Mỹ là một tin vui, vì đó là dấu hiệu cho thấy kinh tế Hoa Kỳ đang bình phục. Tuy nhiên niềm vui đó không được trọn vẹn khi còn quá nhiều mối đe dọa tiềm tàng: mức độ tập trung tài sản và khả năng «lách luật» của các ngân hàng lớn ở Mỹ cao hơn so với năm năm trước và mầm mống của một cuộc khủng hoảng địa ốc mới bắt đầu manh nha.

Ngày 15/09/2008 Hoa Kỳ bị một vụ khủng hoảng tài chính gây chấn động toàn cầu khi tập đoàn đầu tư Lehman Brothers lập thủ tục khai báo vỡ nợ. Được thành lập từ năm 1850, Lehman Brothers là ngân hàng đầu tư đứng hạng bốn của Mỹ, quản lý một khối tài sản trên toàn cầu trị giá hơn 600 tỷ đô la.

Như sóng thần, vụ sụp đổ kéo cả loạt doanh nghiệp tài chính và ngân hàng lớn như AIG, Merrill Lynch, Fannie Mae, Freddie Mac, Wachovia, Washington Mutual,... gây khủng hoảng tín dụng khiến kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm trong hai năm liền. Đây là một vụ khủng hoảng trầm trọng nhất kể từ cuộc khủng hoảng toàn cầu năm 1929-1933.

Trả lời phỏng vấn ban Việt ngữ RFI, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa từ Hoa Kỳ trước hết nhắc lại nguyên nhân đã dẫn đến trận «đại hồng thủy» tài chính đã ập xuống thị trường Wall Street cách nay đúng 5 năm:

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa là tìm hiểu về nguyên do, có lẽ phải nói về nhân duyên trong kinh tế. Tôi xin tạm giải thích rằng cái "nhân" là những yếu tố căn bản khiến một điều gì đó sẽ xảy ra; "duyên" là yếu tố thời cơ khiến điều đó xảy ra vào thời điểm này, với cường độ như vậy.

- Nói cho gọn thì trước hết là sự lạc quan của thế giới từ khi chiến tranh lạnh kết thúc cuối năm 1991 và hệ thống tài chánh quốc tế được giải tỏa cho tự do nên tư bản vận chuyển với số lượng cao và tốc độ nhanh hơn. Thứ hai là trong sự chuyển vận đó, tư bản dư dôi nhờ tiết kiệm cao đã chảy vào nơi có hy vọng sinh lời, chủ yếu từ Á châu về Âu Mỹ. Thứ ba là thị trường chạy nhanh hơn chính trường. Người ta phát minh nhiều phương thức và khí cụ đầu tư mới lạ mà luật lệ kỉểm soát không kịp. Thứ tư là Hoa Kỳ đã giải toả hệ thống kiểm soát ngân hàng từ năm 1999, chủ yếu là hết phân biệt ngân hàng đầu tư với ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư không chỉ làm giàu bằng vốn riêng mà còn có thể vay tiền để đánh bạc trên một thị trường có quá nhiều tiền với lãi suất quá rẻ nên ước tính sai mức rủi ro. Quan trọng nhất là việc doanh nghiệp, ngân hàng, tư nhân và cả nhà nước, không chỉ tại Hoa Kỳ, đều lạc quan đi vay quá khả năng thanh toán. Ngần ấy lý do đã chậm rãi gây thất quân bình, mà cái gì nghiêng quá thì sẽ đổ. Khi đổ thì không theo lối dây chuyền từ A qua B qua C mà có thể cùng sụp từng mảng.

RFI: Thưa anh đó là tóm lược về những cái nhân sâu xa khiến sự thất quân bình này sẽ bị lật. Thế cái duyên như anh nói đó là gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Về cái "duyên", khiến sự sụp đổ hàng loạt lại xảy ra năm 2008, trước tiên là trái bóng gia cư địa ốc đã bể sau năm năm tăng trưởng mạnh tại Mỹ, từ 2002 đến 2006.

- Trái bóng đó là hiện tượng chung và nhiều nước Âu Châu còn bị nặng hơn. Khi lạc quan hồ hởi vay tiền mua nhà, lại do sự khuyến khích của nhà nước tại Mỹ từ hai chục năm qua để "hữu sản hóa", người ta lấy rủi ro quá lớn với loại tín dụng thứ cấp, subprime, là loại thiếu an toàn. Khi giá nhà hết tăng và bóng bể, khủng hoảng tín dụng thứ cấp xảy ra từ năm 2007 làm nhiều ngân hàng mất nợ và kẹt vốn, kể cả hai đại gia loại bán công của Mỹ chuyên nâng đỡ người đi vay tiền mua nhà, có tỷ số nợ cao gấp 75 lần số vốn riêng, là Fannie Mae và Freddie Mac.

- Mất bao nhiêu thì họ tính không ra vì lỡ xé vụn các khoản nợ rồi gói kín như cái kén và bán lại cho cả thế giới dưới dạng trái phiếu có tài sản thế chấp. Kén nợ bị ung thối bên trong đến mức nào thì chính ngân hàng và công ty lượng giá trái phiếu cũng không biết. Nôm na là người ta vay tiền để làm chủ nhiều khoản tài sản bấp bênh mà rủi ro trầm trọng đến cỡ nào thì cũng chẳng rõ.

- Thế rồi, như ẩn dụ của giới kinh tế về con chim hoàng yến bị chết dưới hầm có khí độc, con yến đầu tiên đã chết khi ngân hàng BNP Paribas của Pháp bị khủng hoảng vào Tháng Tám năm 2007. Sau nhiều ngân hàng khác của Anh, Tháng Ba 2008 thì ngân hàng đầu tư Bear Sterns của Mỹ phá sản. Chủ yếu là vì kẹt vốn mà vay không được, có muốn bán cho người khác thì chẳng ai mua vì ai cũng kẹt tiền. Ngoải ra, một cái duyên khác là năm 2008, Hoa Kỳ có tổng tuyển cử.

RFI: Anh cho rằng chuyện tổng tuyển cử tại Mỹ cũng liên quan đến vụ khủng hoảng sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng đúng vậy, khủng hoảng xảy ra khi kinh tế bị suy trầm cuối năm 2007 sau bảy năm tăng trưởng trong thời chiến và khi dân Mỹ lại sắp đi bầu, rồi suy trầm lên tới cao điểm khi có chuyển tiếp quyền lực.

- Xin nhắc lại rằng triết lý kinh doanh của dân Mỹ là "lời ăn lỗ chịu, chứ không thể đòi nhà nước cấp cứu" nên khi khủng hoảng manh nha từ cuối năm 2007, giới chức hữu trách không nhúc nhích vì tung tiền cứu nợ thì lại gây ra nạn doanh nghiệp ỷ thế làm liều. Khi các đại gia ở mức "lớn không thể đổ được" cũng rung chuyển giữa cuộc tranh cử thì giới chính trị lúng túng vì không cứu lại có thể bị hậu quả tai hại hơn. Khi chính quyền muốn cứu lại không tìm ra khách mua tài sản của các cơ sở lâm nạn. Chưa kể là luật lệ Mỹ không cho ngân hàng trung ương bơm tiền chuộc nợ cho các ngân hàng nếu không được Quốc hội cho phép. Những lúng túng của Bộ Ngân khố, Ngân hàng Trung ương và Quốc hội Mỹ trong hai tuần sau vụ Lehman và gần hai tháng trước ngày bầu cử càng gây hốt hoảng khiến khủng hoảng lan rộng và kéo dài lâu hơn.

- Nói tóm lại, vụ khủng hoảng trên thị trường tín dụng gia cư chỉ là cái duyên vì có thể làm mất từ 500 đến 700 tỷ đô la chứ không là cái nhân vốn dĩ xuất phát từ nhiều yếu tố sâu xa lâu dài hơn của một thị trường bất cẩn và các cơ quan hữu trách đã chểnh mảng trong nhiệm vụ. Kết cục thì bốn triệu gia đình Mỹ mất nhà và tài sản của dân Mỹ bị mất 11 ngàn tỷ trong hai năm tổng suy trầm và thất nghiệp vượt quá 10%. Sau đó, nhà nước nhảy vào can thiệp và nếu có giải quyết được một số vấn đề thì lại gây ra nhiều vấn đề khác cho tương lai, theo kiểu liều thuốc đổ bệnh.

RFI: Xin cảm ơn anh về cách tóm lược những vấn đề quả là chằng chịt rắc rối này. Sau đó thì chính quyền Hoa Kỳ giải quyết ra sao để ra khỏi khủng hoảng và nhất là để một trường hợp tương tự không tái diễn?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Như mọi chuyện trên đời hay trong kế toán đều có hai mặt là tích và tiêu, xin nói chuyện tích cực trước, tiêu cực sau. Trước hết là chuyện chặn đà khủng hoảng với đạo luật "Cấp thời Ổn định Kinh tế" ban hành ngày ba Tháng 10 năm 2008, bên trong có chương trình nhà nước chi ra 700 tỷ để mua lại vốn và tài sản của các doanh nghiệp tài chánh hầu chấn chỉnh quân bình của khu vực tài chánh. Số tiền sử dụng về sau được giảm và tính đến năm nay thì nhà nước không lỗ mà còn lời được 32 tỷ.

- Thứ hai, đây là một vụ khủng hoảng quốc tế vì chi phối các ngân hàng ngoài Hoa Kỳ. Sau cơn khủng hoảng, hệ thống giám sát ngân hàng tại Basel, hay là Bâle, bắt các ngân hàng nâng tiêu chuẩn an toàn về vốn so với tiền cho vay ra, về mức thanh khoản và phải trắc nghiệm "ứng suất", là khả năng ứng phó với nhiều kịch bản đột biến về kinh tế tài chánh. Nói chung, dù chưa chấp hành hết các thỏa thuận của Basel III, ngân hàng Âu-Mỹ ngày nay có mức vốn cao hơn và biết thận trọng hơn khi đi vay. Đấy là điểm tích cực nhất.

- Thứ ba, trong nội bộ Hoa Kỳ, Tháng Bảy năm 2009, Quốc hội Mỹ biểu quyết đạo luật cải cách ngân hàng gọi là Dodd-Frank từ tên của hai vị dân cử cầm đầu ủy ban tài chính ngân hàng của Thượng viện và Hạ viện năm đó, vốn bị tai tiếng về tiền bạc với hai doanh nghiệp bán công đã góp phần gây ra khủng hoảng là Fannie Mae và Freddie Mac. Đạo luật hơn 800 trang và cả ngàn điều khoản rắc rối đã mở rộng quyền kiểm soát của nhà nước, mà đến nay mới khai triển có 40% thành điều lệ áp dụng. Thí dụ như "quy luật Volcker", do tên của một cựu Thống đốc, theo đó ngân hàng thương mại không được quyền dùng vốn riêng để giao dịch chứng phiếu. Điều khoản này chỉ có 12 trang trong đạo luật mà sau đó tăng dần nội dung theo đà góp ý và vận động của nhiều giới khiến cho cả ngàn trang đã xuất hiện, và cho tới nay vẫn chưa áp dụng.

- Tiêu cực nhất, khủng hoảng là cơ hội bằng vàng cho các chính khách nhảy vào làm luật, mỗi người gài vào một chi tiết, để gọi là bảo vệ quyền lợi của nhân dân mà thật ra là để bành trướng ảnh hưởng của họ và bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của họ. Thân chủ đáng kể ở đây chính là các đại gia ngân hàng tại Wall Street và vì vậy một vụ khủng hoảng vẫn có nguy cơ xảy ra sau này.

RFI: Anh có một nhận xét khá khe khắt về việc cải cách này, tại sao lại như vậy?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Khi nhà nước gia tăng kiểm soát thì các cơ sở loại nhỏ và vừa, hoặc các ngân hàng địa phương đều được chiếu cố tận tình và rất khó làm ăn. Trái lại, các ngân hàng lớn tại Wall Street thì vẫn có lối thoát và thực tế cũng đã chi tiền vận động tranh cử cho giới làm luật nên dù góp phần gây ra khủng hoảng, họ vẫn mạnh hơn và tập trung tài sản còn nhiều hơn trước. Tức là tình trạng ỷ thế của loại ngân hàng "lớn không thể đổ được" vẫn còn đó.

RFI: Xin anh giải thích cho cái chuyện đó. Ngân hàng "lớn không thể đổ được" là cái gì?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Nhờ kích thước quá lớn và quan hệ kinh doanh đan kết với nhiều ngành, nhiều ngân hàng có thể được nhà nước mặc nhiên nâng đỡ và càng dễ ỷ thế làm liều vì tin là nếu có rủi ro sụp đổ thì nhà nước phải cứu vì sợ hậu qua lan ra cả nền kinh tế. Trong vụ khủng hoảng vừa qua, các chính trị gia đều có thể mị dân mà đả kích tài phiệt Wall Street là tập trung tư bản và lũng đoạn thị trường, nhưng năm năm sau thì mức độ tập trung và khả năng luồn lách của các đại gia Wall Street lại còn cao hơn. Đạo luật cải cách ngân hàng chỉ bắt con cá nhỏ mà tránh những con cá nhà táng!

RFI: Sau cùng, anh vừa nói rằng nguy cơ khủng hoảng vẫn có thể xảy ra. Tại sao lại như vậy, và thí dụ như khủng hoảng ở đâu?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Thưa rằng trước hết là trong nền kinh tế thị trường với vai trò cần thiết của ngân hàng thì khủng hoảng là tất yếu khi nhà nước thi hành chính sách sai lầm. Chính sách sai lầm tất thổi lên bong bóng đầu tư rồi đầu cơ và từ đó đưa tới biến động. Tối đa có thể làm được là phải có ý chí chính trị và khí cụ pháp lý để giảm thiểu hậu quả của khủng hoảng. Nhưng chính sách đối phó trong vụ này dễ gieo mầm cho vụ khác theo lối "bít lỗ hà ra lỗ hổng".

- Thí dụ như trước cơn khủng hoảng thì hai cơ sở bán công Fannie và Freddie kiểm soát và bảo đảm chừng phân nửa tổng số tín dụng gia cư tại Hoa Kỳ, là điều rủi ro. Ngày nay, nhà nước đứng ra bảo đảm tới 90% các khoản tín dụng gia cư mới, là điều còn rủi ro gấp bội. Đây là mầm mống của một vụ khủng hoảng tài chánh sau này.

- Ngoài ra, ta không quên nạn Tổng suy trầm và những biện pháp kích thích kinh tế tiến hành cùng việc cải cách tài chánh. Hậu quả bất lường hay liều thuốc đổ bệnh của việc kích thích và cải cách này là giúp người giàu lại thêm giàu trong khi giới trung lưu và người nghèo lại thêm khốn đốn, trong số này có giới trẻ, dù tốt nghiệp cao đẳng hay đại học vẫn khó kiếm ra việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp thật của thành phần này đã vượt 19% và khoảng 1/3 bèn về nhà sống với cha mẹ và ghi tên đi học lại. Nhiều người được vay tiền học mà thật ra để sống qua ngày và hậu quả là tín dụng cho sinh viên tăng mạnh, cùng với tỷ lệ trễ hạn hoàn trái. Hoa Kỳ có một quả bóng tín dụng tới ngàn tỷ Mỹ kim đang căng phồng và có thể vỡ.

- Thí dụ sau cùng là ngoài chính quyền liên bang với bội chi ngân sách còn quá cao và gánh nặng công trái chưa giảm thì các cấp chính quyền tiểu bang và địa phương còn có gánh nợ vĩ đại của quỹ hưu bổng. Vụ thành phố Detroit vừa vỡ nợ vào Tháng Bảy cũng chỉ là một con chim hoàng yến chết dưới hầm vì nhiều trường hợp tương tự sẽ xảy ra. Các địa phương thu nguyệt liễm của nhân viên đem đầu tư kiếm lời để sẽ trả hưu bổng cho người về hưu. Quỹ hưu bổng của chính quyền trên 50 tiểu bang hiện quản lý số tài sản trị giá hai ngàn 600 tỷ đô la nhưng phải thanh toán khoảng sáu ngàn 700 tỷ, tức là thiếu đâu đó hơn bốn ngàn tỷ. Số thiếu hụt quá lớn này có thể báo hiệu nhiều khó khăn nếu đầu tư bị lỗ lã, và vì các tiểu bang đảm bảo đến hơn 70% khoản nợ hưu bổng nên sẽ có ngày phá sản khi thành phần sinh sau Thế chiến II về hưu ngày một đông hơn. Nếu muốn tránh thì phải tăng thuế, giảm chi công quyền hay cắt bớt lương hưu, toàn những giải pháp khó nuốt cho các chính trị gia. Sau Hy Lạp và Detroit, ta nên chờ đợi vài đợt vỡ nợ khác của nhiều tiểu bang và thành phố Hoa Kỳ! Cái "nhân" đã có, xin chờ cái "duyên".

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.